hotline Đường Dây Nóng:  0234 588 827
Bộ y tế
Bộ tư pháp
Cổng thông tin điện tử
Viện giám định
BV Tâm thần
Bênh viện Trung Ương
Sở tư pháp
Sở Y Tế
Bệnh viện tâm thần
Trường Đại học Y Dược Huế
Thông tin Y học Việt Nam
 

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ YẾU TỐ THÚC ĐẨY HÀNH VI PHẠM TỘI Ở CÁC ĐỐI TƯỢNG CHẬM PHÁT TRIỂN TÂM THẦN TRONG GIÁM ĐỊNH PHÁP Y TÂM THẦN


Chủ trì đề tài: Nguyễn Đăng Nguyên
Tham gia thực hiện: Ngô Đình Thư
  Tôn Thất Hưng
  Hoàng Thị Anh Đào
  Nguyễn Đắc Huy
  Nguyễn Đình Tường
  Trương Thị Hồng Hải
  Trần Thị Anh Quyên
  Phan Quang Huy
  Nguyễn Thị Diệu Hiền
  Nguyễn Thị Mỹ Dung
  Hồng Thị Minh Hương

 

ĐẶT VẤN ĐỀ

 

Chậm phát triển tâm thần (MR) là một rối loạn di truyền được kiểm chứng chính trong hoạt động trí tuệ tổng thể dưới mức trung bình và thâm hụt trong hành vi thích ứng. Chậm phát triển tâm thần là một trạng thái hoạt động đặc biệt bắt đầu từ thời thơ ấu, được đặc trưng bởi trí thông minh, kỹ năng thích ứng giảm và cũng là rối loạn phát triển phổ biến nhất [24].

Chậm phát triển tâm thần ở trẻ nhỏ thường bị các bác sĩ lâm sàng bỏ qua. Tình trạng này hiện diện ở 2-3% dân số, hoặc là một phát hiện biệt lập hoặc là một phần của hội chứng hoặc rối loạn rộng hơn [23].

Nguyên nhân gây chậm phát triển trí tuệ rất nhiều, bao gồm các yếu tố di truyền và môi trường. Trong ít nhất 30 đến 50 phần trăm các trường hợp, các bác sĩ không thể xác định nguyên nhân mặc dù đã đánh giá kỹ lưỡng [17]. Chẩn đoán phụ thuộc nhiều vào lịch sử y tế cá nhân, gia đình, kiểm tra thể chất hoàn chỉnh và đánh giá sự phát triển cẩn thận của trẻ. Những điều này sẽ hướng dẫn các đánh giá, giới thiệu phù hợp để cung cấp tư vấn di truyền, nguồn lực cho gia đình và các chương trình can thiệp sớm cho trẻ [57].

Những năm gần đây tại các cơ sở Giám định Pháp y tâm thần (GĐPYTT), tỷ lệ người phạm tội được chẩn đoán là chậm phát triển tâm thần (MR) có xu hướng gia tăng về số lượng, cũng như mức độ nguy hiểm. Các can phạm bị cơ quan điều tra truy tố về các tội danh như: Trộm cắp, cướp giật, tàng trữ và vận chuyển ma túy, thậm chí giết người, hiếp dâm… Theo báo cáo tổng kết hoạt động của Trung tâm pháp y tâm thần khu vực Miền Trung, MRtrong các vụ án hình sự luôn chiếm tỷ lệ cao: 21,6%(2016)[1]; 28,1%(2017)[2]; 25,7%(2018)[3]; 20,06%(2019)[4] trong các trường hợp được giám định. Trần Văn Cường và Ngô Văn Vinh (2001) phân tích kết quả ở 295 trường hợp giám định pháp y tâm thần trong 5 năm từ năm 1995 đến năm 2000 cho thấy bệnh nhân MRphạm tội chiếm 3,4% trong các trường hợp được GĐPYTT [5]. Trong đó, 100% MR có chỉ số trí tuệ ở mức độ yếu (IQ < 70).

Các nghiên cứu cho thấy những người MR ở tuổi trưởng thành thường có những đặc điểm chung như sống lệ thuộc, thời gian rảnh rỗi nhiều, thất nghiệp hoặc không có khả năng làm việc, hiểu biết về xã hội, pháp luật kém, mối quan hệ xã hội bị thu hẹp, thậm chí có thể bị bỏ rơi, bị hắt hủi. Những đặc điểm này dễ đưa họ tới những tội phạm mang tính chất tệ nạn xã hội như cờ bạc, trộm cắp, cướp giật…Các chức năng tâm thần của người bệnh suy giảm, phương thức tư duy lệch lạc, trí tuệ hạn chế, do đó họ thường bị vướng vào các vụ việc như lừa đảo, hoặc bị lợi dụng trong các vụ việc vi phạm pháp luật khác[5],[62].Mặt khác, khả năng kiểm soát những ham muốn bản năng kém, dễ có những cơn xung động hành vi, bùng nổ cảm xúc. Do đó, họ còn có thể phạm vào các tội mang tính chất bạo lực như cố ý gây thương tích, giết người. Bên cạnh đó, xã hội chưa có cái nhìn thực sự rõ nét về MR cũng như những người MR có hành vi phạm tội[5].

Từ thực trạng nêu trên, với mong muốn làm sáng tỏ hơn đặc điểm hành vi phạm tội, động cơ thúc đẩy đối tượng MR có hành vi phạm tội, chúng tôitiến hành nghiên cứuđề tài “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và yếu tố thúc đẩy hành vi phạm tội ở đối tượng chậm phát triển tâm thần trong giám định pháp y tâm thần” với mục tiêu:

          1. Khảo sát các đặc điểm lâm sàng đối tượng MRphạm tội trong giám định pháp y tâm thần.

         2. Xác định một số yếu tố liên quan thúc đẩy hành vi phạm tội của đối tượngMR trong giám định pháp y tâm thần.

 

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU

 

1.1. KHÁI NIỆM VỀCHẬM PHÁT TRIỂN TÂM THẦN

1.1.1. Khái niệm chung

Thuật ngữ “chậm phát triển tâm thần” cũng được sử dụng trong nhiều tài liệu tiếng Anh và tiếng Việt. Trong tiếng Anh thuật ngữ đó là: “Mental Retardation”. Hiệp hội chậm phát triển trí tuệ Mỹ và các tác giả của cuốn Sổ tay thống kê và chẩn đoán những rối loạn tâm thần IV (DSM-IV) sử dụng thuật ngữ này[8],[16].

Hiện nay, trên thế giới có xu hướng sử dụng những thuật ngữ ít mang tính kì thị hơn đối với  khuyết tật như: trẻ ngoại lệ, trẻ có khó khăn vềhọc tập, trẻ có khuyết tật về phát triển, trẻ có nhu cầu đặc biệt… Những cách sử dụng này nhằm tránh ảnh hưởng tiêu cực của việc sử dụng thuật ngữ “chậm phát triển trí tuệ” hoặc “chậm phát triển tâm thần”; vì những thuật ngữ này có thể làm cha mẹ trẻ cảm thấy buồn, trẻ dễ bị các bạn trêu chọc và giáo viên ít tin tưởng vào khả năng học tập của trẻ.

Những lí giải trên của một số nhà khoa học xét về nhiều khía cạnh cũng có lý do thoả đáng, nhưng có những thuật ngữ khác, chẳng hạn như “trẻ giảm khả năng”, lại quá chung chung, bởi lẽ những trẻ giảm khả năng không chỉ là trẻ MR mà còn có cả những trẻ bị khuyết tật khác.

Một hoạt động thông thường của các nhà khoa học về con người là phân chia các cá nhân thành nhóm, gán tên gọi cho họ, và xem xét những người đó có gì khác so với những người còn lại. Việc gán tên dù là tích cực hay tiêu cực, cũng đều khiến một nhóm người nào đó sẽ phải tách ra khỏi phần đông những người còn lại. Như vậy dù việc gán tên có thể rất có ích trong các hoạt động hành chính và khoa học nhưng nó lại rất dễ dẫn đến những hiểu lầm trong cuộc sống.

Hầu hết những người chưa bao giờ gặp người MR thường cho rằng người MR là những người khác biệt. Trong thực tế, nhận định này là hoàn toàn không đúng. Người MR sống trong cùng một xã hội với người bình thường, khi đường ranh giới MR được vạch ra thì nó đã tách những người này ra khỏi những người không bị coi là MR, đây là việc làm hoàn toàn mang tính chuyên môn.

Xem xét trên những mặt chung nhất, người MR không khác những người không MR. Những người bị gán tên gọi là MR và những người không bị gán tên gọi này đều có tình cảm, suy nghĩ, kì vọng… Nhưng nếu kết luận rằng những người MR không có gì khác biệt so với mọi người thì lại là cực đoan. Mặc dù người bị gán nhãn MR có nhiều điểm giống người không MR, nhưng nói chung thì họ vẫn khác với phần đông mọi người. Đó chính là những vấn đề cần nghiên cứu và lí giải.Ngay trong nhóm người được xem là MR, cũng phải rất thận trọng, tránh kết luận đơn giản là tất cả những người MR đều giống nhau.

Trên thế giới hiện nay có hai thuật ngữ tiếng Anh được sử dụng phổ biến đó là thuật ngữ “Mental Retardation” do Hiệp hội chậm phát triển trí tuệ Mỹ lựa chọn và thuật ngữ “Intellectual Disability” do tổ chức nghiên cứu khoa học quốc tế về MR (IASSID) lựa chọn [12],[16].

1.1.2. Những khái niệm khác nhau về chậm phát triển tâm thần

1.1.2.1.  Khái niệm MR dựa trên trắc nghiệm trí tuệ

Hai tác giả người Pháp A. Binet và T. Simon là những người đầu tiên phát minh ra trắc nghiệm trí tuệ vào đầu thế kỷ XX. Mục đích của trắc nghiệm này là để phân biệt trẻ em bình thường học kém và các trẻ học kém do chậm phát triển trí tuệ. Sau khi ra đời trắc nghiệm này đã được các nhà tâm lí học Mỹ chú ý và nó được lấy làm cơ sở để phát triển nhiều trắc nghiệm trí tuệ khác[8],[16].

Từ khi trắc nghiệm trí tuệ ra đời, qua nhiều năm nghiên cứu, đại đa số các chuyên gia đã thống nhất sử dụng các trắc nghiệm trí tuệ để xác định MR. Theo họ những người có chỉ số trí tuệ dưới 70 là chậm phát triển trí tuệ.

Sử dụng trắc nghiệm trí tuệ để chẩn đoán MR có ưu điểm là khách quan, đáng tin cậy và dễ thực hiện, đặc biệt là trong các trường hợp cần đánh giá phân loại nhanh. Tuy nhiên, phương pháp này cũng có những hạn chế nhất định như:

          - Chỉ số trí tuệ không phải là đơn vị đo lường duy nhất về tiềm năng trí tuệ của con người

          - Không phải lúc nào kết quả chẩn đoán trên trắc nghiệm trí tuệ cũng tương ứng với khả năng thích ứng của cá nhân đó trong cuộc sống thực tế. Có nhiều trường hợp trẻ đạt chỉ số trí tuệ thấp nhưng lại thích ứng dễ dàng với môi trường.

          - Nhược điểm lớn nhất khi xác định trẻ MR bằng trắc nghiệm trí tuệ là trắc nghiệm trí tuệ ít có hiệu quả với trẻ em nghèo và trẻ có nguồn gốc văn hoá khác. Như vậy, để đánh giá xác thực, toàn diện còn cần phải dựa vào nguồn gốc văn hoá, hoàn cảnh về địa lý, kinh tế, xã hội [16].

1.1.2.2.  Khái niệm MR trên cơ sở khiếm khuyết về khả năng điều chỉnh xã hội

Theo Benda,người có quan điểm dựa trên khả năng thích ứng của cá nhân: “Một người MR là người không có khả năng điều khiển bản thân, xử lý các vấn đề riêng của mình, hoặc phải được dạy mới biết làm. Họ có nhu cầu về sự giám sát, kiểm soát, chăm sóc cho sức khoẻ của bản thân mình và cần đến sự chăm sóc của cộng đồng”[8],[16].

Khái niệm này cho rằng những người MR trong quá trình phát triển và trưởng thành sẽ không đạt được cuộc sống độc lập. Đồng thời cách tiếp cận này có những nhược điểm là:

          * Một cá nhân có thể bị coi là khuyết tật trong môi trường này nhưng lại không gặp khó khăn trong môi trường khác. Ví dụ như một người cảm thấy học các môn văn hóa thì khó, nhưng lại có thể thích nghi tốt nếu sống ở nông thôn hoặc làm các công việc đồng áng. Họ có thể bị coi là người khuyết tật nếu sống trong điều kiện văn hoá thành thị hiện đại, ở đó đòi hỏi họ phải biết làm ngay cả những công việc đơn giản nhất như điền vào một bảng câu hỏi, đọc các biển báo hoặc những chỉ dẫn nơi công cộng.

          * Khó xác định cụ thể trẻ nào là trẻ không thích ứng được, bởi vì các chuyên gia vẫn chưa thống nhất khái niệm như thế nào là một trẻ thích ứng được. Hiện nay, nhiều chuyên gia đang cố gắng thiết kế mới một số loại thang đo hành vi thích ứng như những trắc nghiệm trí tuệ.

          * Khả năng thích ứng xã hội kém không chỉ do nguyên nhân MR mà còn nhiều nguyên nhân khác gây nên sự thiếu hụt về hành vi thích ứng. Ví dụ: nhiều người do hụt hẫng về tình cảm đã ảnh hưởng đến khả năng độc lập của họ.

1.1.2.3. Khái niệm MR dựa vào nguyên nhân gây chậm phát triển trí tuệ

Theo quan điểm dựa vào nguyên nhân gây MR, Luria cho rằng: “Trẻ MR là những trẻ mắc phải bệnh về não rất nặng khi còn trong bào thai hoặc trong những năm tháng đầu đời. Bệnh này cản trở sự phát triển của não, do vậy nó gây ra sự phát triển không bình thường về tinh thần. Trẻ MR dễ dàng được nhận ra do khả năng lĩnh hội ý tưởng và khả năng tiếp nhận thực tế bị hạn chế”[16].

Việc xác định MR dựa trên nguyên nhân của nó, có giá trị thực tiễn đặc biệt là đối với việc chăm sóc và giáo dục trẻ. Tuy nhiên khó khăn thường gặp trong việc phân loại theo cách này là sự đa dạng của các nguyên nhân. Hơn nữa, có nhiều trẻ em và người lớn bị MR nhưng lại không phát hiện được những khiếm khuyết trong hệ thần kinh của họ. Khoảng 1/3 số người MR không phát hiện ra nguyên nhân gây MR[69].

1.1.2.4. Khái niệm chậm phát triển trí tuệ theo Sổ tay chẩn đoán và thống kê những rối nhiễu tâm thần IV (DSM-IV)

Theo DSM-IV, tiêu chí chẩn đoán MR bao gồm[14]:

(A) Chức năng trí tuệ dưới mức độ trung bình: Chỉ số trí tuệ đạt gần 70 trên một lần thực hiện trắc nghiệm cá nhân.

(B) Bị thiếu hụt hoặc khiếm khuyết ít nhất là hai trong số những hành vi thích ứng sau: giao tiếp, tự chăm sóc, sống tại gia đình, kĩ năng xã hội/liên cá nhân, sử dụng tiện ích công cộng, tự định hướng, kĩ năng học đường chức năng lao động, giải trí, sức khoẻ và an toàn.

(C) Hiện tượng MR xuất hiện trước 18 tuổi.

Như vậy, theo DSM-IV đặc điểm cơ bản của khuyết tật là hoạt động trí tuệ dưới mức trung bình (Tiêu chí A), bị hạn chế đáng kể về hai trong số những lĩnh vực hành vi thích ứng đã đề cập ở trên (Tiêu chí B), khuyết tật xuất hiện trước 18 tuổi.

Chức năng trí tuệ tổng quát là chỉ số trí tuệ (có thểgọi là IQ) đo được qua đánh giá bằng một hoặc hơn một trắc nghiệm trên cá nhân về trí tuệ. Độ chênh lệch cao nhất trong quá trình xác định chỉ số trí tuệ là 5 điểm, kể cả khi các công cụ đo có những đặc điểm khác biệt nhất định. Do vậy, vẫn có thể chẩn đoán những người có khiếm khuyết về hành vi xã hội và có chỉ số trí tuệ dao động từ 70 đến 75 là người MR. Ngược lại, một số người có chỉ số trí tuệ thấp hơn 70 nhưng lại ít bị khiếm khuyết và thiếu hụt lớn về khả năng thích ứng thì không bị coi là MR.

 Ngoài chỉ số IQ thấp, khả năng thích ứng kém thường là triệu chứng của cá nhân MR. Khả năng thích ứng là khả năng đáp ứng những đòi hỏi chung của cuộc sống, mức độ đáp ứng tiêu chuẩn độc lập cá nhân, tiêu chuẩn mà những người cùng tuổi đạt được trong cùng một hoàn cảnh văn hoá, xã hội và môi trường cộng đồng.

Khả năng thích ứng có thể bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác nhau như giáo dục, động cơ, đặc điểm nhân cách, rối loạn tinh thần và những vấn đề sức khoẻ; các yếu tố này có thể xuất hiện cùng với tật MR[14].

1.1.2.5. Khái niệm theo Hiệp hội Chậm phát triển trí tuệ Mỹ(AAMR) năm 1992.

Theo AAMR-1992, MR là những hạn chế lớn về khả năng thực hiện chức năng, đặc điểm của khuyết tật là:

          * Hoạt động trí tuệ dưới mức trung bình.

          * Hạn chế về hai hoặc nhiều hơn những kĩ năng thích ứng như: kĩ năng giao tiếp, tự phục vụ, sống tại gia đình, sử dụng các tiện ích công cộng, tự định hướng, sức khoẻ, an toàn, kĩ năng học đường chức năng giải trí, lao động.

          * Hiện tượng MR xuất hiện trước 18 tuổi.

Theo AAMR, đặc điểm cơ bản của MR được biểu thị ở hoạt động trí tuệ dưới mức trung bình, điều này xác định khi chỉ số trí tuệ cá nhân chỉ đạt từ 70 đến 75 hoặc thấp hơn, chỉ số trí tuệ được đo thông qua một hoặc hơn một trắc nghiệm trí tuệ, đồng thời phải thông qua một nhóm chuyên gia và phải phù hợp với trắc nghiệm bổ sung cũng như phù hợp với thông tin đánh giá.

Hạn chế về trí tuệ xảy ra đồng thời với hạn chế về khả năng thích ứng, trên cơ sở đó ta biết được hạn chế chung và giảm bớt khả năng sai số trong quá trình chẩn đoán.

Mười lĩnh vực kỹ năng thích ứng (giao tiếp, tự chăm sóc, sống tại gia đình, các kỹ năng xã hội, sử dụng các phương tiện cộng đồng, tự định hướng, sức khoẻ và an toàn, kỹ năng học đường chức năng giải trí và làm việc) quyết định khả năng sống và liên quan mật thiết đến nhu cầu cần hỗ trợ của người MR.

Sinh nhật lần thứ18 là điểm mốc đánh dấu sự trưởng thành mọi mặt của một cá nhân trong xã hội. Theo AAMR, MR không phải là cái mà bạn có như mắt, mũi hoặc một trái tim yếu đuối; nó cũng không phải là hình thức gầy hay thấp; MR cũng không phải là sự rối loạn về y học hoặc rối loạn về tinh thần; MR là tình trạng đặc biệt về chức năng bắt đầu xuất hiện từ khi trẻ còn nhỏ và được biểu hiện bởi sự hạn chế về trí tuệ và khả năng thích ứng [13],[62].

AAMR nhấn mạnh 4 vấn đề cần phải cân nhắc khi áp dụng khái niệm này:

          (1) Một sự đánh giá hiệu quả phải tính đến sự đa dạng về văn hoá và ngôn ngữ, cũng như sự khác nhau về yếu tố giao tiếp hành vi.

          (2) Sự hạn chế về kỹ năng thích ứng xảy ra trong hoàn cảnh môi trường đặc trưng cho tuổi đồng trang lứa và thể hiện rõ nhu cầu cần hỗ trợ của người đó.

          (3) Với sự hỗ trợ thích hợp trong khoảng thời gian thích hợp, khả năng thực hiện cuộc sống của người MR nói chung sẽ được cải thiện.

          (4) Xã hội có trách nhiệm hỗ trợ để trẻ khuyết tật có khả năng hoà nhập cộng đồng. Hệ thống hỗ trợ người MR với nhiều dịch vụ và điều phối phù hợp với người khuyết tật.

          Nếu người khuyết tật càng nặng thì mức hỗ trợ lại càng phải cao để giúp người đó hoà nhập vào xã hội ở mức độ tối đa [13],[62].

Như vậy, trong khái niệm MR của DSM-IV và AAMR đã cung cấp những hướng dẫn cụ thể cho việc xác định những dấu hiệu khá đặc trưng của tật MRtheo quan niệm đo lường. Trong thực tiễn có thể dựa vào những chỉ số trên để chẩn đoán và phân loại trẻ MR.

Nhìn chung cho đến nay, khái niệm về MR được sử dụng rộng rãi trên thế giới và ở Việt Nam là khái niệm MR theo bản phân loại DSM-IV và khái niệm MR theo bảng phân loại AAMR năm 1992. Hai định nghĩa này đều sử dụng các tiêu chí cơ bản giống nhau là hoạt động trí tuệ dưới mức trung bình, hạn chế về kỹ năng thích ứng và khuyết tật xuất hiện trước 18 tuổi [62].

Sự khác biệt giữa hai khái niệm này là: DSM-IV sử dụng chỉ số trí tuệ làm tiêu chí để xác định mức độ MR, còn theo bảng phân loại của AAMR sử dụng tiêu chí khả năng thích ứng xã hội để phân loại mức độ MR.

1.2. DỊCH TỂ HỌC.

Trong hơn 50 năm qua, tỷ lệ mắc chậm phát triển tâm thần đã bị ảnh hưởng bởi những thay đổi trong định nghĩa về chậm phát triển trí tuệ, cải thiện chăm sóc y tế, công nghệ, thái độ xã hội đối với việc chấp nhận và điều trị của một cá nhân chậm phát triển trí tuệ ; mở rộng giáo dục dịch vụ cho trẻ em khuyết tật từ sơ sinh đến tuổi 21. Cách tiếp cận lý thuyết để xác định tỷ lệ chậm phát triển trí tuệ sử dụng đường cong chuông bình thường để ước tính số lượng cá nhân có IQ giảm dưới điểm số tiêu chí đã thiết lập. Ví dụ, 2,3% dân số Hoa Kỳ có điểm IQ dưới 70 và 5,5% có điểm IQ dưới 75. Tuy nhiên, ước tính này không tính đến các kỹ năng hành vi thích ứng. Dựa trên lấy mẫu theo kinh nghiệm, Baroff (1991)[19] cho rằng chỉ có 0,9% dân số có thể được coi là chậm phát triển trí tuệ, tuy nhiên tỷ lệ các trường hợp có thể được quy cho một nguyên nhân đã biết được ước tính chỉ là 30% đến 50% (Curry et al., 1997)[29]. Sự hiểu biết về dịch tễ học của MR không rõ nguyên nhân, có thể dẫn đến việc xác định các đặc điểm có thể là yếu tố nguyên nhân trực tiếp hoặc nằm ở đâu đó dọc theo con đường nguyên nhân (Croen, Grether & Selvin, 2001)[62].

Sau khi xem xét các nghiên cứu dịch tễ học gần đây nhất, McLaren và Bryson (1987)[49] đã báo cáo rằng tỷ lệ chậm phát triển tâm thần là khoảng 1,25% dựa trên tổng sàng lọc dân số. Khi trẻ em ở độ tuổi đi học là nguồn thống kê tỷ lệ lưu hành, các tiểu bang báo cáo tỷ lệ từ 0,3% đến 2,5% tùy thuộc vào các tiêu chí được sử dụng để xác định đủ điều kiện nhận các dịch vụ giáo dục đặc biệt, các nhãn được gán trong cá thể đủ điều kiện (ví dụ: chậm phát triển, khuyết tật học tập, tự kỷ, và/hoặc chậm phát triển trí tuệ), các điều kiện môi trường và kinh tế trong tiểu bang (Bộ Giáo dục Hoa Kỳ, 1994)[16]. Người ta ước tính rằng khoảng 89% những đứa trẻ này bị chậm phát triển tâm thần nhẹ, 7% bị chậm phát triển tâm thần ở mức độ trung bình và 4% bị chậm phát triển tâm thần nặng đến trầm trọng. Ngoài ra, McLaren và Bryson (1987)[16] báo cáo rằng tỷ lệ chậm phát triển trí tuệ dường như tăng theo tuổi lên đến khoảng 20 tuổi, với nam nhiều hơn nữ giới đáng kể[49].Người ta thường đồng ý rằng MR thường gặp hơn ở nam giới, một phát hiện được cho là do nhiều đột biến gen trong nhiễm sắc thể X [17]. Tỷ lệ nam/nữ là 1,3 đến 1,9: 1 [41],[69].

1.3. SINH HỌC THẦN KINH MR.

Dự án lập bản đồ gen người và nghiên cứu loại bỏ gen với động vật trong phòng thí nghiệm, cho phép xác định những thay đổi nội bào cụ thể trong từng đột biến gen và mối tương quan của một phân tử thiếu hụt với sự thiếu hụt nhận thức, do đó thiết lập cơ sở nhận thức của tế bào [23],[55].

Các tế bào thần kinh, dẫn truyền xung thần kinh, có hai loại mở rộng: một số sợi nhánh ngắn, được phân nhánh, nhận tín hiệu từ các tế bào thần kinh khác và một sợi trục dài duy nhất gửi tín hiệu [43]. Gai là những phần nhô ra nhỏ được tìm thấy ở vùng sau khớp của các khớp thần kinh kích thích [27]; đóng vai trò là cầu nối giữa sợi trục và sợi nhánh, chúng làm trung gian cho tính mềm dẻo linh hoạt của khớp thần kinh, quyết định việc học, trí nhớ và nhận thức [25]. Nói cách khác, tái tạo khớp thần kinh và thay đổi hình dạng, mật độ cột sống gai dưới nhiều chức năng của não như học tập và trí nhớ [27]. Hơn nữa, các protein khác nhau được mã hóa bởi các gen có đột biến tạo ra MR liên kết X, sẽ kích hoạt các đường dẫn tín hiệu điều chỉnh hình thái của gai, giải phóng các chất dẫn truyền thần kinh, tăng trưởng sợi trục và sợi tế bào Actin. Lý thuyết hiện tại là MR bắt nguồn từ một khiếm khuyết trong cấu trúc và chức năng của các khớp thần kinh [27].

MR đã được liên kết với những thay đổi trong đuôi gai và gai đuôi gai trong vài thập kỷ [55]. Gần đây, các nghiên cứu về các tế bào thần kinh hình chóp ở vỏ não và hồi hải mã của bệnh nhân mắc hội chứng Down, hội chứng Rett và hội chứng X mong manh đã xác nhận những thay đổi về hình dạng và mật độ cột sống gai [45].

Độ linh hoạt đề cập đến khả năng của bộ não được đúc kếttheo kinh nghiệm, học hỏi, hồi tưởng, tự tổ chức lại và phục hồi sau chấn thương [39]. Độ linh hoạt phát triển từ sự tương tác của các khớp thần kinh kích thích và ức chế, đặc biệt là các khớp thần kinh kích thích, qua trung gian là glutamate. Sự kích hoạt các thụ thể NMDA và AMPA glutamatergic làm cho các khớp thần kinh hình thành và ổn định [39]. Các protein kích hoạt Rho-GTPase cũng có liên quan, vì chúng điều chỉnh các tế bào actin cytoskeleton [55], rất cần thiết cho sự tăng trưởng và biệt hóa tế bào thần kinh [27]. Học tập và trí nhớ có liên quan đến những thay đổi ngắn hạn về sức mạnh hoặc hiệu quả của sự dẫn truyền thần kinh synap, những thay đổi dài hạn trong cấu trúc và số lượng các khớp thần kinh [44]. Phiên mã gen là cần thiết cho hoạt động của các ký ức dài hạn và xây dựng các mạch thần kinh trưởng thành trong não đang phát triển [39]. Do đó, tính dẻo liên quan đến việc kích thích các thụ thể trên bề mặt tế bào bằng các chất dẫn truyền thần kinh, kích hoạt các tầng tín hiệu nội bào, sao chép gen và tổng hợp các protein mới làm thay đổi hình dạng vật lý và số lượng các khớp thần kinh.

Phát hiện gần đây cho thấy MR liên kết X có thể bắt nguồn từ các đột biến trong gen mã hóa protein PAK3, OPHN1 và ARHGEF6, tất cả đều tương tác với Rho-GTPase, nhấn mạnh tầm quan trọng của các cơ chế tế bào này đối với chức năng nhận thức [27],[55]. Năm 1999, Amir et al. [15] phát hiện ra rằng đột biến gen MECP2, mã hóa protein gắn với methyl-CpG hoặc MeCP2, chiếm hơn 80% các trường hợp mắc hội chứng Rett, một nguyên nhân gây MR ở cá nhân nữ [59]. Vỏ não của con người thể hiện một mô hình thú vị của biểu hiện MeCP2: protein này khan hiếm hoặc không có trong các tế bào thần kinh chưa trưởng thành, nhưng có nhiều trong các tế bào thần kinh trưởng thành trong suốt cuộc đời [11]. Trên hết, sự giảm phân nhánh đuôi gai của các tế bào thần kinh hình chóp đã được quan sát thấy ở một số vùng nhất định của vỏ não cả trong hội chứng Rett và trong tự kỷ [73].

Hội chứng X mong manh là nguyên nhân di truyền phổ biến của MR [38]. Hội chứng này hầu như luôn luôn liên quan đến sự mở rộng của lặp lại CGG trinucleotide trong gen FMR1 tại Xq27.3 [71]. Gen FMR1 mã hóa protein FMRP, liên kết với RNAm, và hoạt động phiên mã điều hòa của nó rất quan trọng đối với sự trưởng thành và chức năng của các khớp thần kinh [23],[39],[56]. Ở những người khỏe mạnh, lặp lại CGG có sáu đến 54 đơn vị, trong khi những người mắc hội chứng X mong manh có sự mở rộng trên 200 đơn vị, điều này cho thấy sự đột biến hoàn toàn. Tổng cộng có hơn 200 CGG lặp lại dẫn đến hiện tượng hypermethylation, với sự im lặng phiên mã của gen FMR1, vì vậy protein FMRP vắng mặt. Các cá nhân có 55 đến 200 lần lặp lại nằm trong phạm vi tiền khởi đầu, không ổn định và có xu hướng mở rộng trong lần phân chia meogen nữ đầu tiên [67]. Những con chuột bị loại gen FMR1 bị loại ra cho thấy bệnh vĩ mô và rối loạn học tập và trí nhớ, do đó bắt chước kiểu hình của con người [68]. Các nghiên cứu bệnh lý ở những bệnh nhân mắc hội chứng X mong manh và ở chuột biến đổi gen cho thấy đuôigai bất thường, củng có ý tưởng cho rằng rối loạn phát triển cột sống lưng có liên quan đến MR [38]

Bất hoạt một trong hai alen của mỗi gen trên nhiễm sắc thể X, xảy ra vào đầu thời kỳ phôi thai ở trẻ gái [11] tạo ra hai quần thể tế bào. Cơ chế di truyền này chịu trách nhiệm cho sự đa dạng của các kiểu hình trong các bệnh liên quan đến gen lặn ở các bé gái dị hợp tử, do sự bất hoạt của alen đột biến xảy ra ngẫu nhiên [52]. Trong trường hợp hội chứng X mong manh, các bé gái bị đột biến có xu hướng có các triệu chứng lâm sàng nhẹ hơn [56], [69].

1.4. NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ.

Khoảng 3% dân số có chỉ số thông minh (IQ) dưới 70, trong đó một nguyên nhân gây chậm phát triển trí tuệ có thể được thiết lập trong chưa đầy một nửa số trường hợp [16],[35]. Tỷ lệ chậm phát triển tâm thần nặng là khoảng 3 trên 1.000 dân số và 30 trên 1.000 đối với chậm phát triển tâm thần nhẹ [37].

Một số yếu tố môi trường, di truyền hoặc nhiều yếu tố có thể gây chậm phát triển trí tuệ. Người ta cũng tin rằng các yếu tố hành vi hoặc xã hội như nghèo đói, suy dinh dưỡng, sử dụng ma túy và rượu, cũng như thiếu hụt kích thích nghiêm trọng có thể góp phần gây ra MR [49]. Thật không may, trong khoảng 30 đến 50 phần trăm các trường hợp, nguyên nhân không được xác định ngay cả sau khi đánh giá chẩn đoán kỹ lưỡng (Cury et al., 1997; Schaefer & Bodensteiner, 1992)[29],[59].

Một số người bị dị tật não bẩm sinh, những người khác bị tổn thương não trong giai đoạn quan trọng trong sự phát triển trước hoặc sau khi sinh. Các nguyên nhân gây chậm phát triển bao gồm: cận thị, chấn thương sọ não và ác tính hệ thống thần kinh trung ương. Nguyên nhân phổ biến nhất của MR ở các quốc gia công nghiệp là hội chứng rượu bào thai với tỷ lệ mắc là 1 trên 100 ca sinh. Nguyên nhân thứ hai được biết đến của MR là hội chứng Down, với một tỷ lệ mới mắc 1 trong 800-1.000 ca sinh (Campbell, Morgan & Jackson, 2004)[16],[26].

1.4.1. Điều kiện di truyền

Một số rối loạn gen đơn dẫn đến chậm phát triển tâm thần. Nhiều trong số này có liên quan đến các đặc điểm vật lý không điển hình hoặc dị hình (Sultana et al., 1995)[66]. Những điều kiện như vậy bao gồm hội chứng X mong manh, u xơ thần kinh, xơ cứng củ, hội chứng Noonan và hội chứng Cornelia de Lange [16],[18],[40].

Có đến một phần tư số người chậm phát triển tâm thần có một bất thường nhiễm sắc thể có thể phát hiện được. Trẻ mắc hội chứng Down (trisomy 21) thường có các đặc điểm thể chất rất dễ nhận biết, nhưng các đặc điểm liên quan đến các bất thường nhiễm sắc thể khác, chẳng hạn như hội chứng Klinefelter (47, XXY), có thể không rõ ràng đối với các thành viên gia đình hoặc bác sĩ [20]. Những đứa trẻ khác có thể bị xóa hoặc nhân đôi một nhiễm sắc thể cụ thểhiếm khi được báo cáo, do đó, kiểu hình vẫn chưa được xác định. Một số bất thường nhiễm sắc thể được di truyền từ cha mẹ nhưng hầu hết xảy ra đột biến[48].

Nhiều hội chứng lâm sàng được mô tả trước đây đã được tìm thấy có bất thường nhiễm sắc thể liên quan (ví dụ, các hội chứng DiGeorge, Prader-Willi, Angelman và Williams). Các điều kiện di truyền khác bao gồm hội chứng Phelan-McDermid (22q13del), Mowat-Wilson hội chứng, bệnh di truyền (Badano et al., 2006). Trong trường hợp hiếm nhất, bất thường với nhiễm sắc thể X hoặc Y cũng có thể gây tàn tật. Hội chứng 48, XXXX và 49, XXXXX ảnh hưởng đến một số ít bé gái trên toàn thế giới, trong khi các bé trai có thể bị ảnh hưởng bởi 47, XYY, 49, XXXXY hoặc 49, XYYYY (Moser, 1995)[16],[51].

1.4.2. Vấn đề trước khi sinh

Khuyết tật tâm thần có thể dẫn đến khi thai nhi không phát triển bên trong người mẹ đúng cách. Hơn nữa, nguyên nhân trước khi sinh bao gồm nhiễm trùng bẩm sinh như cytomegalovirus, toxoplasmosis, herpes, giang mai, rubella và virus gây suy giảm miễn dịch ở người;mẹ sốt kéo dài trong ba tháng đầu; tiếp xúc với thuốc chống co giật hoặc rượu và mẹ phenylketon niệu không được điều trị (PKU) [64]. Biến chứng sinh non, đặc biệt là ở trẻ cực kỳ nhẹ cân, hoặc tiếp xúc với chì sau sinh cũng có thể gây ra chậm phát triển tâm thần [54].

14.3. Vấn đề chu sinh

Nguyên nhân chu sinh liên quan đến việc mang thai muộn (biến chứng của thai kỳ, bệnh ở mẹ như bệnh tim, thận, tiểu đường và rối loạn chức năng nhau thai), trong khi sinh (chuyển dạ), (sinh non nặng, nhẹ cân, sinh ngạt, khó khăn và /hoặc sinh nở phức tạp và chấn thương khi sinh), sơ sinh (4 tuần đầu đời) nhiễm trùng huyết, vàng da nặng, hạ đường huyết) [46].

1.4.4. Các vấn đề sau sinh (ở trẻ nhỏ và tuổi thơ)

Các vấn đề sau sinh bao gồm trẻ nhỏ và tuổi thơ,nó có liên quan đến nhiễm trùng não như bệnh lao, viêm não Nhật Bản và viêm màng não do vi khuẩn. Cũng như chấn thương đầu, tiếp xúc với chì mãn tính, nghiêm trọng và suy dinh dưỡng kéo dài (Leonard & Wen, 2002; Zoghbi, 2003)[47].

1.4.5. Rối loạn chuyển hóa

Rối loạn chuyển hóa là một nguyên nhân có thể khác của chậm phát triển tâm thần. Danh sách các nguyên nhân chuyển hóa của MR là rộng lớn và bao gồm rối loạn lysosome lưu trữ, hyperglycinemia nonketotic, khuyết tật chu kỳ urê, rối loạn phosphoryl oxy hóa hoặc mitochondriopathies, sinh tổng hợp thiếu cholesterol, tổng hợp thiếu của serine, rối loạn bẩm sinh glycosyl hóa và thiếu creatin [42] và nhóm rối loạn chuyển hóa mới được gọi là bệnh dẫn truyền thần kinh ở trẻ em, trong đó chúng ta bị thiếu hụt semialdehyd dehydrogenase succinic [53],[69].

Trong một số trường hợp (ví dụ, PKU, suy giáp), chậm phát triển có thể phòng ngừa được bằng điều trị sớm [61]. Các rối loạn khác (ví dụ mucopolysaccharidosis, sphingolipidoses) ít đáp ứng với can thiệp sớm. Y học phân tử đã giúp chẩn đoán một số bệnh được gọi là bệnh tế bào ty thể [16],[33].

1.4.6. Tiếp xúc với một số loại bệnh hoặc độc tố

Các bệnh như ho gà, sởi hoặc viêm màng não có thể gây ra khuyết tật về tinh thần nếu chăm sóc y tế bị trì hoãn hoặc không đầy đủ. Tiếp xúc với các chất độc như chì hoặc thủy ngân cũng có thể ảnh hưởng đến khả năng tinh thần [10],[16],[30].

1.4.7. Thiếu iốt (cretinism)

Thiếu iốt ảnh hưởng đến khoảng 2 tỷ người trên toàn thế giới là nguyên nhân hàng đầu có thể phòng ngừa khuyết tật tâm thần ở các khu vực của thế giới đang phát triển nơi thiếu iốt là đặc trưng. Thiếu iốt cũng gây bướu cổ, suy tuyến giáp[31]. Thiếu iốt hoàn toàn từ mẹ làm hạn chế sự phát triển não bộ của thai nhi và dẫn đến một tình trạng gọi là suy giáp. Chậm phát triển do thiếu iốt nghiêm trọng được gọi là suy giảm trí thông minh nhẹ vàphổ biến hơn suy tuyến giáp toàn diện [36]. Một số khu vực trên thế giới bị ảnh hưởng nghiêm trọng do thiếu hụt tự nhiên và chính phủ không hành động. Ấn Độ là nước nổi bật nhất, với 500 triệu người mắc bệnh thiếu hụt, 54 triệu người mắc bệnh bướu cổ và 2 triệu người mắc bệnh đần độn. Trong số các quốc gia khác bị ảnh hưởng bởi thiếu iốt, Trung Quốc và Kazakhstan đã bắt đầu hành động, trong khi Nga thì không [50].

1.4.8. Suy dinh dưỡng

Suy dinh dưỡng là một nguyên nhân phổ biến của giảm trí thông minh ở các nơi trên thế giới bị ảnh hưởng bởi nạn đói, chẳng hạn như Ethiopia [34],[72].

Các nghiên cứu thực nghiệm với động vật thí nghiệm cho thấy suy dinh dưỡng ngay sau khi sinh làm giảm tốc độ tăng trưởng của hệ thần kinh trung ương và số lượng tế bào thần kinh, tạo ra vỏ não mỏng hơn, thiếu myel hóa, phân nhánh đuôi gai kém và một số bất thường gai cột sống [21],[69]. Trẻ sơ sinh bị suy dinh dưỡng nghiêm trọng có khiếm khuyết về thần kinh và mức độ khác nhau của MR được ghi nhận vài năm sau khi hồi phục [28]. Suy dinh dưỡng nặng, lượng protein của người mẹ không gây ra sự thiếu hụt thần kinh hoặc trí tuệ vĩnh viễn ở thai nhi vì sự phát triển của não không bị ảnh hưởng [63]. Tuy nhiên, trong vòng 24 tháng đầu đời sau sinh, suy dinh dưỡng gây tổn thương não nghiêm trọng hơn [32]. Một nghiên cứu gần đây đã đánh giá mật độ và hình thái cột sống ở các tế bào thần kinh vỏ não của 13 trẻ sơ sinh chết vì suy dinh dưỡng nặng, so với bảy trẻ sơ sinh được nuôi dưỡng tốt đã chết vì các nguyên nhân khác [21]. Các tác giả đã báo cáo những phát hiện đáng chú ý về mật độ cột sống trên đuôi gai, tương tự như mô tả trong MR do các nguyên nhân khác và họ kết luận rằng, mặc dù họ không thể chứng minh rằng những phát hiện đó là nguyên nhân, không phải là mối liên hệ ngẫu nhiên với MR, họ có thể đại diện cơ sở cho rối loạn chức năng khớp thần kinh liên quan đến suy dinh dưỡng nặng ở tuổi trẻ[69].

1.5. ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ HƯỚNG DẪN CHẨN ĐOÁN

1.5.1. Tổng quan trục I (Axis I): Mức độ nghiêm trọng của sự chậm phát triển và rối loạn hành vi tác phong[9],[70].

Trục này được sử dụng để ghi lại các mã từ Phần F7 của phân loại. Mức độ chậm phát triển được ghi lại bằng mã chữ số thứ hai (F70 đến F79). Có thể ghi lại các tật chứng tác phong bằng cách sử dụng mã vị trí thập phân. Trong hành vi bất thường của ICD-10 liên quan đến chậm phát triển trí tuệ chỉ có thể được chỉ định theo ba cách như: không có hoặc tối thiểu (x.0); đáng kể, đòi hỏi sự chú ý hoặc điều trị (x.1); hoặc 'khác' (x.8). Trong hướng dẫn này, 6 mã thập phân thứ hai bổ sung đã được cung cấp để ghi lại loại hành vi khi x.1 (đáng kể) được sử dụng. Các mã bổ sung này được mô tả ở cuối phần này. Các mã cho mức độ chậm phát triển tâm thần là:

F70 chậm phát triển tâm thần nhẹ;

F71 Chậm phát triển tâm thần vừa phải;

F72 Chậm phát triển tâm thần nặng;

F73 chậm phát triển tâm thần trầm trọng;

F78 Chậm phát triển tâm thần khác;

F79 Chậm phát triển tâm thần không xác định.

* Hướng dẫn chẩn đoán

Chậm phát triển tâm thần là tình trạng ngừng trệ hoặc phát triển không hoàn toàn của tâm trí, đặc biệt là sự suy giảm các kỹ năng biểu hiện trong thời kỳ phát triển, góp phần vào mức độ thông minh chung, tức là khả năng nhận thức, ngôn ngữ, vận động và khả năng xã hội. Chậm phát triển có thể xảy ra có hoặc không có bất kỳ rối loạn tâm thần hoặc thể chất nào khác. Tuy nhiên, những người chậm phát triển trí tuệ có thể trãi qua đầy đủ các rối loạn tâm thần và tỷ lệ mắc các rối loạn tâm thần khác cao hơn ít nhất ba đến bốn lần trong dân số này so với dân số nói chung. Ngoài ra, những người chậm phát triển trí tuệ có nguy cơ bị bóc lột và lạm dụng thể chất/tình dục cao hơn. Hành vi thích ứng luôn bị suy yếu, nhưng trong môi trường xã hội được bảo vệ nơi có hỗ trợ, sự suy yếu này có thể không rõ ràng ở những đối tượng chậm phát triển tâm thần nhẹ.

Trí thông minh không phải là một đặc tính đơn nhất nhưng được đánh giá dựa trên một số lượng lớn các kỹ năng khác nhau, ít nhiều cụ thể. Mặc dù xu hướng chung là cho tất cả các kỹ năng này phát triển đến một mức độ tương tự ở mỗi cá nhân, nhưng có thể có sự khác biệt lớn, đặc biệt là ở những người bị bệnh tâm thần. Những người như vậy, có thể thể hiện sự suy yếu nghiêm trọng ở một khu vực cụ thể (ví dụ: ngôn ngữ) hoặc có thể có một lĩnh vực kỹ năng cụ thể cao hơn (ví dụ: trong các nhiệm vụ không gian đơn giản) đối với tình trạng chậm phát triển tâm thần nghiêm trọng. Điều này trình bày các vấn đề khi xác định loại chẩn đoán trong đó một người chậm phát triển nên được phân loại. Việc đánh giá trình độ trí tuệ nên dựa trên bất kỳ thông tin nào có sẵn, bao gồm các phát hiện lâm sàng, hành vi thích ứng (được đánh giá liên quan đến nền tảng văn hóa của cá nhân) và hiệu suất kiểm tra tâm lý.

Để chẩn đoán xác định chậm phát triển trí tuệ, cần giảm mức độ hoạt động trí tuệ,  dẫn đến giảm khả năng thích ứng với nhu cầu hàng ngày của môi trường xã hội bình thường. Các rối loạn tâm thần hoặc thể chất liên quan có ảnh hưởng lớn đến hình ảnh lâm sàng và việc sử dụng bất kỳ kỹ năng nào. Do đó, loại chẩn đoán được chọn phải dựa trên các đánh giá toàn diện về khả năng, không dựa trên bất kỳ lĩnh vực suy yếu hoặc kỹ năng cụ thể nào. Các mức IQ đưa ra được cung cấp như một hướng dẫn và không nên được áp dụng một cách cứng nhắc, trong các vấn đề về tính hợp lệ giữa các nền văn hóa. Các loại được đưa ra dưới đây là các phân chia tùy ý của một liên tục phức tạp và không thể được xác định với độ chính xác tuyệt đối. Chỉ số IQ phải được xác định từ các bài kiểm tra trí thông minh được quản lý theo tiêu chuẩn, được xác định theo tiêu chuẩn văn hóa địa phương, bài kiểm tra được chọn phải phù hợp với mức độ hoạt động của từng cá nhân và các điều kiện khuyết tật cụ thể bổ sung, ví dụ: vấn đề ngôn ngữ biểu cảm, khiếm thính, tham gia thể chất. Quy mô trưởng thành và thích ứng xã hội, một lần nữa được chuẩn hóa tại địa phương, nên được hoàn thành nếu có thể bằng cách phỏng vấn phụ huynh hoặc nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc quen thuộc với các kỹ năng của cá nhân trong cuộc sống hàng ngày. Không sử dụng các thủ tục tiêu chuẩn hóa, chẩn đoán phải được coi là tạm thời.

Cần tham khảo hướng dẫn của WHO về "Đánh giá người chậm phát triển tâm thần" (WHO 1992), hướng dẫn của Hiệp hội chống chậm tâm thần Hoa Kỳ "Chậm phát triển tâm thần, phân loại định nghĩa và hệ thống hỗ trợ" (AAMR 1992) cả hai đều cung cấp chi tiết về dụng cụ tiêu chuẩn có thể được sử dụng để đánh giá chậm phát triển trí tuệ và thích ứng chức năng.

1.5.2. F70 chậm phát triển tâm thần nhẹ

1.5.2.1. Mô tả lâm sàng

Những người chậm phát triển có được ngôn ngữ với một số chậm trễ, nhưng hầu hết đều đạt được khả năng sử dụng lời nói cho mục đích hàng ngày, tổ chức các cuộc trò chuyện và tham gia vào cuộc phỏng vấn lâm sàng. Hầu hết trong số họ cũng đạt được sự độc lập hoàn toàn trong việc tự chăm sóc (ăn, rửa, mặc quần áo, kiểm soát ruột và bàng quang), trong các kỹ năng thực hành và trong gia đình, ngay cả khi tốc độ phát triển chậm hơn đáng kể so với bình thường. Những khó khăn chính thường thấy trong công việc ở trường học, nhiều người có vấn đề đặc biệt trong việc đọc và viết. Tuy nhiên, những người chậm phát triển có thể được giúp đỡ rất nhiều, bởi giáo dục được thiết kế để phát triển các kỹ năng của họ và bù đắp cho khuyết tật của họ. Hầu hết, những người trong phạm vi chậm phát triển trí tuệ có khả năng làm việc đòi hỏi thực tế hơn là khả năng học tập, bao gồm cả lao động thủ công không có kỹ năng hoặc bán thành thạo. Trong bối cảnh văn hóa xã hội đòi hỏi ít thành tích học tập, một số mức độ chậm phát triển nhẹ có thể không phải là một vấn đề. Tuy nhiên, Chậm phát triển thiếu hụt về tình cảm và xã hội đáng chú ý, hậu quả của sự bất lợi, ví dụ: sẽ hiển nhiên không có khả năng đối phó với các yêu cầu của hôn nhân hoặc nuôi con, hoặc sẽ khó phù hợp với truyền thống văn hóa và kỳ vọng.

Nói chung, những khó khăn về hành vi, cảm xúc và xã hội của người chậm phát triển tâm thần, nhu cầu điều trị gần giống với những người gặp phải ở người có trí thông minh bình thường, hơn là những vấn đề cụ thể của người chậm phát triển vừa phải và nghiêm trọng. Một căn nguyên hữu cơ đang được xác định trong tỷ lệ bệnh nhân ngày càng tăng, mặc dù chưa có trong đa số.

1.5.2.2. Hướng dẫn chẩn đoán

Nếu các bài kiểm tra IQ tiêu chuẩn hóa phù hợp được sử dụng, phạm vi 50 đến 69 là dấu hiệu của chứng chậm phát triển tâm thần nhẹ. Hiểu và sử dụng ngôn ngữ có xu hướng bị trì hoãn ở một mức độ khác nhau, các vấn đề về ngôn ngữ điều hành gây cản trở sự phát triển độc lập có thể tồn tại trong cuộc sống của người trưởng thành. Một căn nguyên hữu cơ chỉ có thể được xác định trong một số ít các đối tượng. Các điều kiện liên quan như tự kỷ, rối loạn phát triển khác, động kinh, rối loạn tiến hành hoặc khuyết tật thể chất được tìm thấy ở các tỷ lệ khác nhau. Nếu các rối loạn như vậy có mặt chúng nên được mã hóa độc lập.

Bao gồm:  Kém thông minh;

                  Tâm thần dưới mức bình thường nhẹ;

                  Thiểu năng trí tuệ nhẹ;

                  Khờ dại.

1.5.3. F71 chậm phát triển tâm thần vừa (trung bình)

1.5.3.1. Mô tả lâm sàng

Các cá nhân trong thể loại này, chậm phát triển khả năng hiểu và sử dụng ngôn ngữ, thành tựu cuối cùng của họ trong lĩnh vực này còn hạn chế. Thành tựu của kỹ năng tự chăm sóc và vận động cũng bị chậm lại, một số cần được giám sát trong suốt cuộc đời. Tiến bộ trong công việc ở trường còn hạn chế, nhưng một tỷ lệ những cá nhân này học các kỹ năng cơ bản cần thiết để đọc, viết và đếm. Các chương trình giáo dục có thể cung cấp cơ hội cho họ phát triển tiềm năng hạn chế và có được một số kỹ năng cơ bản; những chương trình như vậy phù hợp với những người học chậm với thành tích thấp. Khi trưởng thành, những người chậm phát triển thường có thể làm những công việc thực tế đơn giản, nếu các nhiệm vụ được cấu trúc cẩn thận và giám sát có kỹ năng được cung cấp. Sống hoàn toàn độc lập trong cuộc sống trưởng thành hiếm khi đạt được. Tuy nhiên, những người như vậy hoàn toàn di động, hoạt động thể chất và phần lớn cho thấy bằng chứng về sự phát triển xã hội trong khả năng thiết lập liên lạc, giao tiếp với người khác và tham gia vào các hoạt động xã hội đơn giản.

1.5.3.2. Hướng dẫn chẩn đoán

Chỉ số IQ thường nằm trong khoảng 35 đến 49. Các hồ sơ khác biệt về khả năng là phổ biến trong nhóm này, với một số cá nhân đạt được trình độ không gian cao hơn so với các nhiệm vụ phụ thuộc vào ngôn ngữ, trong khi những người khác thì vụng về nhưng lại thích giao tiếp xã hội và đơn giản cuộc hội thoại. Mức độ phát triển của ngôn ngữ là khác nhau: một số người bị ảnh hưởng có thể tham gia vào các cuộc trò chuyện đơn giản trong khi những người khác chỉ có đủ ngôn ngữ để truyền đạt nhu cầu cơ bản của họ. Một số người không bao giờ học ngôn ngữ, mặc dù họ có thể hiểu các hướng dẫn đơn giản và có thể học cách sử dụng các dấu hiệu thủ công để bù đắp ở một mức độ nào đó cho khuyết tật về khả năng nói của họ. Một nguyên nhân hữu cơ có thể được xác định ở phần lớn những người chậm phát triển tâm thần vừa phải. Tự kỷ ở trẻ em hoặc các rối loạn phát triển lan tỏa khác có mặt trong một thiểu số đáng kể, và có ảnh hưởng lớn đến bức tranh lâm sàng và loại hình quản lý cần thiết. Động kinh, khuyết tật thần kinh và thể chất cũng rất phổ biến, mặc dù hầu hết những người chậm phát triển vừa phải có thể đi lại mà không cần sự trợ giúp. Đôi khi có thể xác định các tình trạng tâm thần khác, nhưng mức độ phát triển ngôn ngữ hạn chế có thể làm cho chẩn đoán khó khăn và phụ thuộc vào thông tin thu được từ những người khác quen thuộc với cá nhân. Bất kỳ rối loạn liên quan như vậy nên được mã hóa độc lập.

        Bao gồm:      Đần;

Tâm thần dưới mức bình thường mức độ vừa phải;

Tâm thần thiểu năng mức độ vừa phải.

1.5.4. F72 chậm phát triển tâm thần nặng

1.5.4.1. Mô tả lâm sàng

Thể loại này tương tự như chậm phát triển tâm thần vừa phải về mặt hình ảnh lâm sàng, sự hiện diện của một căn nguyên hữu cơ và các điều kiện liên quan. Các mức độ thành tích thấp hơn được đề cập dưới F71 cũng là phổ biến nhất trong nhóm này. Hầu hết những người thuộc nhóm này bị suy giảm vận động rõ rệt hoặc thiếu hụt liên quan khác, cho thấy sự hiện diện của thiệt hại đáng kể về mặt lâm sàng đối với hoặc phát triển hệ thống thần kinh trung ương.

1.5.4.2. Hướng dẫn chẩn đoán

IQ thường nằm trong khoảng 20 đến 34.

        Bao gồm:      Trí tuệ dưới mức bình thường nặng

Tâm thần thiểu năng nặng

1.5.5. F73 chậm phát triển tâm thần trầm trọng

1.5.5.1. Mô tả lâm sàng

Chỉ số IQ trong danh mục này được ước tính dưới 20, có nghĩa là trong thực tế, các cá nhân bị ảnh hưởng bị hạn chế nghiêm trọng về khả năng hiểu hoặc tuân thủ các yêu cầu hoặc hướng dẫn. Hầu hết các cá nhân như vậy là bất động hoặc bị hạn chế nghiêm trọng trong việc di chuyển, không tự nhiên và có khả năng ở hầu hết các hình thức giao tiếp phi ngôn ngữ rất thô sơ. Họ có ít hoặc không có khả năng chăm sóc các nhu cầu cơ bản của riêng mình, và cần sự giúp đỡ và giám sát liên tục.

1.5.5.2. Hướng dẫn chẩn đoán

IQ dưới 20. Hiểu và sử dụng ngôn ngữ chỉ giới hạn ở việc hiểu các lệnh cơ bản và thực hiện các yêu cầu đơn giản. Có thể có được các kỹ năng sắp xếp và kết hợp không gian cơ bản và đơn giản nhất, người bị ảnh hưởng có thể có sự giám sát,hướng dẫn phù hợp để tham gia một phần nhỏ vào các nhiệm vụ thực tế và trong nước. Một nguyên nhân hữu cơ có thể được xác định trong hầu hết các trường hợp. Thần kinh nghiêm trọng hoặc các khuyết tật thể chất khác ảnh hưởng đến khả năng vận động là phổ biến, cũng như chứng động kinh và khiếm thị và thính giác. Rối loạn phát triển lan tỏa ở dạng nghiêm trọng nhất của chúng, đặc biệt là tự kỷ không điển hình, đặc biệt thường xuyên, đặc biệt là ở những người di động.

        Bao gồm:        Tâm thần dưới mức bình thường trầm trọng.

Tâm thần thiểu năng trầm trọng.

1.5.6. F78 chậm phát triển tâm thần khác

Loại này chỉ được sử dụng khi đánh giá mức độ chậm phát triển trí tuệ, bằng các thủ tục thông thường được đưa ra đặc biệt khó khăn, hoặc không thể bằng các khiếm khuyết về cảm giác hoặc thể chất liên quan, như ở người mù, câm điếc và bị rối loạn nghiêm trọng về thể chất hoặc người khuyết tật.

1.5.7. F79 Chậm phát triển tâm thần không xác định

Có bằng chứng chậm phát triển trí tuệ, nhưng không đủ thông tin để chuyển bệnh nhân vào một trong các loại trên.

        Bao gồm:        Thiếu sót tâm thần NOS (không biệt định).

Trí tuệ dưới mức bình thường NOS.

Tâm thần thiểu năng NOS.

Mã chẩn đoán để ghi lại hành vi bất thường.

Lưu ý rằng các mã không được sử dụng khi hành vi bất thường là một phần được công nhận của một rối loạn khác (ví dụ: như tự kỷ) đã được ghi lại trên Trục III.

(a) Mức độ suy giảm hành vi được mã hóa bằng chữ số thập phân đầu tiên:

F7 x .0 Suy giảm hành vi không có hoặc tối thiểu.

F7 x .1 Suy giảm đáng kể hành vi cần chú ý hoặc điều trị.

F7 x .8 Những khiếm khuyết khác về hành vi.

F7 x .9 Không đề cập đến suy giảm hành vi.

(b) Loại hành vi được ghi ở trên được ghi với vị trí thập phân thứ hai

F7 x .11 Tự gây thương tích lặp đi lặp lại

Thể loại này là để tự gây thương tích lặp đi lặp lại ở những người trưởng thành đủ để gây tổn thương mô. Nó bao gồm tự gây thương tích sẽ gây tổn thương mô nếu việc bảo vệ hoặc kiềm chế không được sử dụng. Hành vi tự gây thương tích lặp đi lặp lại bao gồm đập đầu, tát vào mặt, chọc vào mắt và cắn tay, môi hoặc các bộ phận cơ thể khác.

Không bao gồm các rối loạn vận động rập khuôn của thời thơ ấu F98.4, cắn móng và mút ngón tay F98.8

F7 x .12 Pica (thèm ăn đối với các chất không chứa nhiều chất dinh dưỡng).

Thể loại này dành cho pica được định nghĩa như trong F98.3 nhưng vẫn tồn tại trong cuộc sống trưởng thành.

F7 x .13 Hyperkinetics (tăng động).

Thể loại này dành cho hành vităng động được định nghĩa như đối với F90 nhưng vẫn tồn tại trong cuộc sống trưởng thành.

F7 x .14 Lang thang và bỏ trốn.

Thể loại này không bao gồm rối loạn hành vi F91 của thời thơ ấu.

F7 x .15 Sự hành hung đối với người khác.

Thể loại này không bao gồm rối loạn hành vi F91 của thời thơ ấu.

F7 x .16 Kéo tóc

Danh mục này dành cho kéo tóc nhiều lần không đáp ứng các tiêu chí cho trichotillomania (F63.3).

 

CHƯƠNG 2

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

 

2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

2.1.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh

Gồm những đối tượng được chẩn đoán là chậm phát triển tâm thần theo tiêu chuẩn chẩn đoán của Bảng phân loại bệnh quốc tế - phiên bản thứ 10 của Tổ chức Y tế Thế giới (ICD-10, WHO 1992)[9]; có hành vi phạm tội một hoặc nhiều lần trong quá trình bị rối loạn tâm thần và hành vi. Các đối tượng này được theo dõi giám định nội trú tại Trung tâm Pháp y tâm thần khu vực Miền Trung từ ngày 01 tháng 7 năm 2015 đến 30 tháng 6 năm 2020.

- Không  có tiền sử mắc các rối loạn tâm thần khác.

- Không có các bệnh cơ thể nặng (suy gan, suy thận).

2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ

- Loại trừ những đối tượng được chẩn đoán chậm phát triển tâm thần nhưng không có tư liệu về tiểu sử, bệnh sử.      

- Loại trừ những đối tượng được chẩn đoán là chậm phát triển tâm thần nhưng sau đó:                  

               +Có các bệnh thực tổn nặng,

+ Các trạng thái mất trí,

+ Nhiễm độc các chất khác.

2.1.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu

2.1.3.1. Thời gian nghiên cứu:Từ tháng 07/2015 đến tháng 6/2020.

2.1.3.2. Địa điểm nghiên cứu:Trung tâm Pháp y tâm thần khu vực Miền Trung.

2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.2.1. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu.

2.2.2. Cỡ mẫu: Mẫu thuận tiện.

2.2.3.  Phương pháp chọn mẫu:Tất cả những đối tượng đến theo dõi giám định nội trú tại Trung tâm pháp y tâm thần khu vực Miền Trung trong thời gian từ tháng 7/2015 đến tháng 6/2020 đáp ứng tiêu chuẩn chẩn đoán chậm phát triển tâm thần theo Bảng phân loại bệnh quốc tế - phiên bản thứ 10 của Tổ chức Y tế Thế giới (ICD-10, WHO 1992).

2.2.4.  Tiêu chuẩn chẩn đoán MR theo ICD-10 [70]

2.2.4.1. F70 chậm phát triển tâm thần nhẹ

Nếu các bài kiểm tra IQ tiêu chuẩn hóa phù hợp được sử dụng, phạm vi 50 đến 69 là dấu hiệu của chứng chậm phát triển tâm thần nhẹ. Hiểu và sử dụng ngôn ngữ có xu hướng bị trì hoãn ở một mức độ khác nhau, các vấn đề về ngôn ngữ điều hành gây cản trở sự phát triển độc lập có thể tồn tại trong cuộc sống của người trưởng thành. Một căn nguyên hữu cơ chỉ có thể được xác định trong một số ít các đối tượng. Các điều kiện liên quan như tự kỷ, rối loạn phát triển khác, động kinh, rối loạn tiến hành hoặc khuyết tật thể chất được tìm thấy ở các tỷ lệ khác nhau. Nếu các rối loạn như vậy có mặt, chúng nên được mã hóa độc lập.

Bao gồm:            Kém thông minh

                           Tâm thần dưới mức bình thường nhẹ

                           Thiểu năng trí tuệ nhẹ

                           Khờ dại

2.2.4.2. F71 chậm phát triển tâm thần vừa (trung bình)

Chỉ số IQ thường nằm trong khoảng 35 đến 49. Các hồ sơ khác biệt về khả năng là phổ biến trong nhóm này, với một số cá nhân đạt được trình độ không gian cao hơn so với các nhiệm vụ phụ thuộc vào ngôn ngữ, trong khi những người khác thì vụng về nhưng lại thích giao tiếp xã hội và hội thoạiđơn giản. Mức độ phát triển của ngôn ngữ là khác nhau: một số người bị ảnh hưởng có thể tham gia vào các cuộc trò chuyện đơn giản trong khi những người khác chỉ có đủ ngôn ngữ để truyền đạt nhu cầu cơ bản của họ. Một số người không bao giờ học ngôn ngữ, mặc dù họ có thể hiểu các hướng dẫn đơn giản và có thể học cách sử dụng các dấu hiệu thủ công để bù đắp ở một mức độ nào đó cho khuyết tật về khả năng nói của họ. Một nguyên nhân hữu cơ có thể được xác định ở phần lớn những người chậm phát triển tâm thần vừa phải. Tự kỷ ở trẻ em hoặc các rối loạn phát triển lan tỏa khác có mặt trong một thiểu số đáng kể, và có ảnh hưởng lớn đến bức tranh lâm sàng và loại hình quản lý cần thiết. Động kinh, và khuyết tật thần kinh và thể chất cũng rất phổ biến, mặc dù hầu hết những người chậm phát triển vừa phải có thể đi lại mà không cần sự trợ giúp. Đôi khi có thể xác định các tình trạng tâm thần khác, nhưng mức độ phát triển ngôn ngữ hạn chế có thể làm cho chẩn đoán khó khăn và phụ thuộc vào thông tin thu được từ những người khác quen thuộc với cá nhân. Bất kỳ rối loạn liên quan như vậy nên được mã hóa độc lập.

        Bao gồm:      Đần

Tâm thần dưới mức bình thường mức độ vừa phải

Tâm thần thiểu năng mức độ vừa phải

2.2.4.3. F72 chậm phát triển tâm thần nặng

IQ thường nằm trong khoảng 20 đến 34.

        Bao gồm:      Trí tuệ dưới mức bình thường nặng

Tâm thần thiểu năng nặng

2.2.4.4. F73 chậm phát triển tâm thần trầm trọng

IQ dưới 20. Hiểu và sử dụng ngôn ngữ chỉ giới hạn ở việc hiểu các lệnh cơ bản và thực hiện các yêu cầu đơn giản. Có thể có được các kỹ năng sắp xếp và kết hợp không gian cơ bản và đơn giản nhất, và người bị ảnh hưởng có thể có sự giám sát và hướng dẫn phù hợp để tham gia một phần nhỏ vào các nhiệm vụ thực tế và trong nước. Một nguyên nhân hữu cơ có thể được xác định trong hầu hết các trường hợp. Thần kinh nghiêm trọng hoặc các khuyết tật thể chất khác ảnh hưởng đến khả năng vận động là phổ biến, cũng như chứng động kinh và khiếm thị và thính giác. Rối loạn phát triển lan tỏa ở dạng nghiêm trọng nhất của chúng, đặc biệt là tự kỷ không điển hình, đặc biệt thường xuyên, đặc biệt là ở những người di động.

        Bao gồm:      Tâm thần dưới mức bình thường trầm trọng

Tâm thần thiểu năng trầm trọng

2.2.4.5. F78 chậm phát triển tâm thần khác

Loại này chỉ được sử dụng khi đánh giá mức độ chậm phát triển trí tuệ bằng các thủ tục thông thường được đưa ra đặc biệt khó khăn hoặc không thể bằng các khiếm khuyết về cảm giác hoặc thể chất liên quan, như ở người mù, câm điếc và bị rối loạn nghiêm trọng về thể chất hoặc người khuyết tật.

2.2.4.6. F79 Chậm phát triển tâm thần không xác định

Có bằng chứng chậm phát triển trí tuệ, nhưng không đủ thông tin để chuyển bệnh nhân vào một trong các loại trên.

        Bao gồm:      Thiếu sót tâm thần NOS (không biệt địnhkhác)

Trí tuệ dưới mức bình thường NOS

Tâm thần thiểu năng NOS

2.2.5.  Công cụ thu thập số liệu

2.2.5.1. Phiếu điều tra.

Dựa vào mục tiêu nghiên cứu để thiết kế phiếu điều tra (phụ lục 1). Các dữ liệu trong phiếu điều tra tập trung vào ba nội dung là đặc điểm chung, đặc điểm lâm sàng, yếu tố liên quan thúc đẩy hành vi phạm tội. Phiếu điều tra được thiết kế chi tiết, phục vụ cho việc thu thập dữ liệu từ đặc điểm sinh học xã hội đến các triệu chứng của rối loạn tâm thần, các yếu tố ảnh hưởng cũng như sự thay đổi và diễn tiến của triệu chứng.

2.2.5.2. Trắc nghiệm tâm lý Raven(Test Raven)

Năng lực trí tuệ có thể được đánh giá bằng nhiều test khác nhau, trong đó test Raven được áp dụng khá phổ biến ở Việt Nam. Test Raven được Jonh.C.Raven phát triển vào năm 1936. Raven là một test được sử dụng để khảo sát IQ hay còn gọi là trí thông minh của con người. Raven gồm hai bộ một bộ hoàn chỉnh dành cho người lớn gồm 60 câu hỏi, một bộ rút gọn dành cho trẻ em có màu.

Test Raven là một loại test trắc nghiệm dạng điền khuyết, mỗi câu hỏi đều có quy luật để điền một bức tranh sao cho phù hợp và người làm test phải động não để có thể hoàn thành bài test một cách chính xác, các trắc nghiệm sẽ được xếp theo mức độ thấp dần và được chia thành các bộ A, B, C...

2.2.6.  Hành vi phạm tội của đối tượng MR

2.2.6.1.Khái niệm hành vi phạm tội ở đối tượng MR

Mỗi con người bình thường đều có khả năng hình thành và phát triển nănglực nhận thức ý nghĩa xã hội của hành vi mà mình thực hiện, cũng như năng lựcđiều khiển hành vi đó trên cơ sở của sự nhận thức cho phù hợp với những đòi hỏi tất yếu của xã hội. Tuy nhiên, có những trường hợp do bệnh tật mà hoạt động của hệ thần kinh ở họ bị rối loạn nên họ hoàn toàn hoặc một phần bị hạn chế ở khả năng nhận thức tính nguy hiểm cho xã hội ở hành vi của mình. Từ những phân tích trên chúng tôi đưa ra khái niệm hành vi phạm tội ở đối tượng MR như sau:

Hành vi phạm tội ở đối tượng MR là những hành vi vi phạm pháp luật được thực hiện bởi những người đang mắc bệnh chậm phát triển tâm thần, làm hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình”.Trong luật hình sự tại Khoản 1 Điều 13 Bộ luật Hình sự quy định: “Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự”[5].

Tuy nhiên đối với trường hợp người chậm phát triển tâm thần có hành viphạm tội,  thì trong quá trình thực hiện giám định pháp y tâm thần tại Trung tâm Pháp y Tâm thần khu vực miền Trung, tùy vào kết luận của hội đồng giám định sẽ đưa ra kết luận về mức độ chịu trách nhiệm hình sự của bệnh nhân trước pháp luật.

2.2.6.2. Đặc điểm chunghành vi phạm tội ở đối tượng MR

MR là một nhóm trạng thái bệnh lý có bệnh nguyênvà bệnh sinh khác nhau, đặc trưng bằng sự sa sút tâm thần bẩm sinh hoặc mắcphải trong những năm đầu thời thơ ấu, tỷ lệ từ 0,5 đến 1,5% dân số [16],[62]. Biểuhiện lâm sàng đa dạng và phong phú, kết hợp giữa sự thiếu sót về cơ thể vànhững rối loạn tâm thần cũng như rối loạn về khả năng thích ứng. Người bệnhtin người, dễ bị ám thị nên dễ bị lợi dụng, ý chí yếu, kém tự chủ, chính vì nhữnglý do đó mà đối tượng MR chiếm tỷ lệ nhất định (21,6%(2016)[1]; 28,1%(2017)[2]; 25,7%(2018)[3]; 20,06%(2019)[4]) trong các trường hợp giám định tại Trung tâm Pháp y tâm thần khu vực miền Trung. Đối tượng MR hay có những hành vi gây hại cho bản thân và chongười khác, làm mất trật tự an toàn xã hội nhiều khi đến mức tội phạm hình sự.

2.2.6.3. Phương thức thực hiện hành vi phạm tội

Phương thức thực hiện hành vi phạm tội là các phương pháp và hình thứcđã được lựa chọn để thực hiện hành vi phạm tội, xuất phát từ động cơ, mục đíchđã hình thành và do đặc điểm tâm lý của người thực hiện hành vi phạm tội quyđịnh. Phương thức thực hiện hành vi phạm tội, phản ánh ý định phạm tội và quátrình chuẩn bị phạm tội[5],[62].

Phương thức thực hiện hành vi phạm tội gắn liền với việc sử dụng phươngtiện, công cụ phạm tội và thủ đoạn phạm tội, đồng thời, trong phương thứcphạm tội thể hiện đặc điểm tâm - sinh lý, kiểu khí chất, thói quen, trình độ trithức, kỹ năng, kỹ xảo, các mối quan hệ xã hội, trạng thái tâm lý…của ngườiphạm tội.Phương thức thực hiện hành vi phạm tội có mối liên hệ rất chặt chẽ vớiđộng cơ, mục đích phạm tội. Động cơ phạm tội quyết định mục đích phạm tội;mục đích phạm tội quyết định tính chất và phương thức thực hiện. Do vậy, nhậnthức rõ về phương thức thực hiện hành vi phạm tội sẽ nhận diện được động cơ,mục đích phạm tội[65].

Đối tượng MR phạm tội chủ yếu xảy ra ở MR mức độ nhẹ vàmức độ vừa nên phương thức thực hiện hành vi phạm tội của họ cũng rất đadạng. Qua nghiên cứu của một số tác giả cho thấy, những đối tượng MR với nền tảng là mức độ hạn chế về trí tuệ do đó họ thiếu các kỹ năng làm việc,làm việc cần có sự chỉ dẫn nên thường là thất nghiệp và sống lệ thuộc, bêncạnh đó ở họ vốn hiểu biết về xã hội, pháp luật kém, mối quan hệ xã hội bị thuhẹp, thậm chí có thể bị bỏ rơi, bị hắt hủi. Do đó họ dễ phạm phải những tộiphạm mang tính chất tệ nạn xã hội như: cờ bạc, trộm cắp, cướp giật…hoặc bịvướng vào các vụ việc như lừa đảo, hoặc bị lợi dụng trong các vụ việc vi phạmpháp luật khác.Những đối tượng MR cũng luôn có nhu cầu và ham muốn tình dụcnhưng do nhận thức hạn chế, kém khả năng kiểm soát xung động, không cókiến thức về tình dục và vẫn muốn thỏa mãn nhu cầu của mình nên họ coithường các quy tắc, chuẩn mực xã hội và trở thành tội phạm hiếp dâm. Mặtkhác, khả năng kiểm soát những cơn xung động hành vi, cơn bùng nổ cảm xúckém, nên họ còn có thể phạm các tội mang tính chất bạo lực như cố ý gâythương tích thậm chí giết người…[62]

Về công cụ phạm tội thì chưa có các nghiên cứu cụ thể chỉ ra rằng người MR sẽ sử dụng các công cụ nào, song trong những nghiên cứu về người có rối loạn tâm thần, phạm tội các tác giả cho thấy các công cụ mà họ sử dụng cũngrất đa dạng, từ công cụ thô sơ cho tới các công cụ mang tính sát thương cao[62],[65].

2.2.6.4. Hậu quả và nạn nhân của hành vi phạm tội

Bất cứ một tội phạm nào cũng đều có thể gây ra những hậu quả nguy hiểmcho xã hội, làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động. Trongcấu thành tội phạm, không phải lúc nào dấu hiệu hậu quả cũng được phản ánh. Chỉ có các cấu thành tội phạm vật chất thì dấu hiệu hậu quả mới được thể hiệntrong cấu thành tội phạm cơ bản. Khi đó, dấu hiệu hậu quả được thể hiện thôngqua sự biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động[62].

Xác định hậu quả của tội phạm được thực hiện thông qua việc xác định,đánh giá các đặc điểm của đối tượng tác động hoặc sự biến đổi tình trạng bìnhthường của đối tượng tác động. Chúng ta không được đồng nhất giữa khái niệm hậu quả và sự biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động.Hậu quả của hành vi phạm tội nói chung là vô cùng nguy hiểm và khólường trước và hậu quả của hành vi phạm tội ở đối tượng MR nói riêng cũngrất khôn lường. Như vậy, hậu quả tội phạm có thể được xác định dựa trên nhữnghậu quả vật chất (tài sản và tính mạng: tài sản bị phá huỷ, bị chiếm giữ, bị sửdụng trái phép, thiệt hại về sức khỏe và tính mạng của nạn nhân của hành vi phạm tội) và hậu quả phi vật chất (danh dự, nhân phẩm, quyền tự do của con người, chính trị, xã hội, đạo đức...)[5].

2.2.7. Cách thức tiến hành nghiên cứu

Tất cả các đối tượng nghiên cứu được tiến hành theo các bước:

- Tra cứuhồ sơ theo dõi giám định, biên bản và kết luận giám định pháp y tâm thần của đối tượng.          

- Thu thập các thông tin:          

+ Các thông số chung về giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp, trình độ văn hoá, dân tộc, tôn giáo, tình trạng hôn nhân,...          

+ Tìm hiểu tiền sử và quá trình diễn biến của đối tượng, trong đó lưu ý đến các yếu tố tâm lý, yếu tố bệnh lý tâm thần, yếu tố di truyền, yếu tố bệnh lý có thể, yếu tố môi trường tự nhiên xung quanh.          

+ Các thông số về các triệu chứng rối loạn tâm thần và đánh giá các rối loạn đó.

- Các phương tiện xét nghiệm cận lâm sàng…giúp chẩn đoán sẵn có ởTrung tâm Pháp y tâm thần khu vực miền Trung.

2.2.8. Phân tích và xử lý số liệu

- Tất cả số liệu thông tin thu thập được sẽ được xử lý theo phương pháp thống kê toán học bằng   phần mềm SPSS 16.0.

- Các chỉ số, biến số nghiên cứu được thống kê về tần số, tính tỷ lệ %.

- Phép kiểm định bằng các test c2 ­­(Chi-square test) ở mức ý nghĩa α= 0,05 được sử dụng để xác định mối liên quan giữa các nhóm với nhau về kinh tế, nhóm tuổi, trình độ học vấn...

- Phép kiểm định T test cho các số trung bình.

Tất cả các kiểm định được giả thiết là 2 phía và có mức ý nghĩa p< 0.05.

2.2.9. Đạo đức nghiên cứu

- Số liệu được mã hoá nhằm giữ bí mật thông tin cho đối tượng.

- Nghiên cứu này được hội đồng khoa học của Trung tâm Pháp y tâm thần khu vực Miền Trung cho phép thực hiện.

CHƯƠNG 3

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

 

3.1. ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA NHÓM ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

3.1.1. Đặc điểm theo nhóm tuổi của nhóm đối tượng nghiên cứu

Bảng 3.1. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo nhóm tuổi

Nhóm tuổi

Đối tượng

Tổng số

(n = 83)

p

Phạm tội (n = 65)

Bị hại(n = 18)

Số lượng

Tỷ lệ (%)

Số lượng

Tỷ lệ (%)

Số lượng

Tỷ lệ (%)

< 20

5

7,7

12

66,7

17

20,5

p<0,05

21 – 30

39

60

3

16,7

42

50,6

31 – 40

13

20

2

11,1

15

18,1

> 40

8

12,3

1

5,6

9

10,8

X ± SD

27,78 ± 9,711

Min 16, Max 68

 

- Nhóm đối tượng từ 21 - 30 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất  50,6%.

- Nhóm đối tượngtừ  tuổi>40 trở lên chỉ chiếm tỷ lệ 10,8%.

- Tuổi trung bình của nhóm đối tượng nghiên cứu là 27,78± 9,711.

- Đối tượng nhỏ nhất 16 tuổi, lớn nhất 68 tuổi.

- Sự khác biệt giữa các loại đối tượng ở các nhóm tuổi có ý nghĩa thống kê với p<0,05.

3.1.2. Đặc điểm theo hôn nhân của nhóm đối tượng nghiên cứu

Bảng 3.2. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo tình trạng hôn nhân

Tình trạng hôn nhân

Tổng số (n = 83)

Số lượng

Tỷ lệ (%)

Chưa kết hôn

68

81,9

Đã kết hôn

10

12,0

Ly hôn

5

6,0

- Nhóm đối tượng chưa kết hôn chiếm tỷ lệ cao nhất: 81,9%

- Nhóm đã kết hôn gặp thấp hơn: 12%. Nhóm ly hôn chỉ chiếm 6%.

3.1.3. Đặc điểm theo giới của nhóm đối tượng nghiên cứu

Biểu đồ 3.1. Phân bố  theo giới của đối tượng nghiên cứu

- Nhóm đối tượngphạm tội: có tỷ lệ nam83,1%; nữ 16,9%.

- Nhóm đối tượng bị hại: chỉ có nữ chiếm tỷ lệ là: 100%.

- Toàn bộ đối tượng nghiên cứu: có tỷ lệ nam 65,1%; nữ 34,9%.

- Sự khác biệt về giới giữa các nhóm đối tượng có ý nghĩa thống kê với p<0,05.

3.1.4. Đặc điểm theo học vấn của nhóm đối tượng nghiên cứu

Bảng 3.3. Phân bố theo trình độ học vấn của đối tượng nghiên cứu

Mức trình độ học vấn

Tổng số  (n = 83)

Số lượng

Tỷ lệ (%)

Mù chữ

25

30,1

Tiểu học

48

57,8

Trung học cơ sở

10

12,0

- Nhóm đối tượng có trình độ tiểu học chiếm tỷ lệ cao nhất  57,8%. 

- Nhóm đối tượng có trình độ THCS có tỷ lệ thấp nhất 12%.

- Không có đối tượng nào học ở các cấp học cao hơn.

3.1.5. Đặc điểm theo nơi cư trú của nhóm đối tượng nghiên cứu

Biểu đồ 3.2. Phân bố  theo nơi cư trú của đối tượng nghiên cứu

- Nhóm đối tượng cư trú tại nông thôn chiếm tỷ lệ cao nhất: 78,3%.

- Tỷ lệ thấp nhất gặp ở nhóm cư trú tại miền núi với tỷ lệ là: 4,8%.

3.2. ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG CỦA NHÓM ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

3.2.1. Thái độ tiếp xúc

Bảng 3.4. Phân bố thái độ tiếp xúc theo giới của đối tượng nghiên cứu

Thái độ tiếp xúc

Đối tượng

Tổng số

(n = 83)

p

Nam (n=54)

Nữ (n = 29)

n

%

n

%

n

%

Hợp tác

50

92,6

23

79,3

73

88

p>0,05

Thờ ơ

3

5,6

6

20,7

9

10,8

Không hợp tác

1

1,9

0

0

1

1,2

 

- Nhóm đối tượng có thái độ tiếp xúc hợp tác chiếm tỷ lệ cao nhất  88%.

- Nhóm đối tượng có thái độ thờ ơ chiếm tỷ lệ 10,8%.

- Nhóm đối tượng không hợp tác chỉ chiếm tỷ lệ 1,2%.

- Sự khác biệt về thái độ tiếp xúc theo giới không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.

3.2.2. Giấc ngủ, ý thức và năng lực định hướng

Bảng 3.5. Phân bố giấc ngủ, ý thức, NLĐH theo giới của đối tượng nghiên cứu

Triệu chứng

Đối tượng

Tổng số

(n = 83)

p

Nam (n=54)

Nữ (n = 29)

n

%

n

%

n

%

Giấc ngủ

Bình thường

47

87

23

79,3

70

84,3

p>0,05

Rối loạn

7

13

6

20,7

13

15,7

Ý thức

Bình thường

54

100

28

96,6

82

98,8

p>0,05

Rối loạn

0

0

1

3,4

1

1,2

NLĐH

Bình thường

50

92,6

22

75,9

72

86,7

p<0,05

Rối loạn

4

7,4

7

24,1

11

13,2

 

- Nhóm đối tượng có rối loạn giấc ngủ chiếm tỷ lệ   15,7%.

- Nhóm đối tượng có rối loạn ý thức chỉ chiếm tỷ lệ 1,2%.

- Nhóm đối tượng có rối loạn năng lực định hướng chiếm tỷ lệ 13,2%.

- Sự khác biệt về NLĐH theo giới là có ý nghĩa thống kê với p<0,05.

3.2.3. Cảm xúc

Bảng 3.6. Phân bố cảm xúc theo giới của đối tượng nghiên cứu

Cảm xúc

Nam (n=54)

Nữ (n = 29)

Tổng số (n = 83)

p

n

%

n

%

n

%

Rối loạn

22

40,7

19

65,5

41

49,4

p<0,05

Bồn chồn

1

1,9

0

0

1

1,2

p>0,05

Cáu kỉnh

0

0

1

3,4

1

1,2

p>0,05

Thờ ơ

3

5,6

8

27,6

11

13,3

p<0,05

Khí sắc trầm

7

13

6

20,7

13

15,7

p>0,05

Khí sắc tăng

3

5,6

1

3,4

4

4,8

p>0,05

Không ổn định

3

5,6

9

31

12

14,5

p<0,05

Khác

6

11,1

0

0

6

7,2

p>0,05

 

- Nhóm đối tượng có rối loạn cảm xúc có tỷ lệ 49,4%. Sự khác biệt về rối loạn cảm giữa nam và nữ có ý nghĩa thống kê với p<0,05.

- Nhóm đối tượng có khí sắc trầm chiếm tỷ lệ cao nhất  15,7%.

- Nhóm đối tượng có cảm xúc cáu kỉnh , bồn chồn cùng có tỷ lệ thấp nhất 1,2%.

- Sự khác biệt về cảm xúc thờ ơ và không ổn định giữa nam và nữ có ý nghĩa thống kê với p<0,05.

3.2.4. Tư duy

Biểu đồ 3.3. Phân bố tư duy theo giới của đối tượng nghiên cứu

-  Nhóm đối tượng có tư duy chậm chạp chiếm tỷ lệ cao nhất  80,7%.

- Nhóm đối tượng có tư duy khác chiếm tỷ lệ thấp nhất 2,4%.

- Sự khác biệt về tư duy giữa các giới không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.

3.2.5. Hành vi tác phong

Bảng 3.7. Phân bố HVTP theo giới của đối tượng nghiên cứu

HVTP

Nam (n=54)

Nữ (n = 29)

Tổng số (n = 83)

p

n

%

n

%

n

%

Không rối loạn

36

66,7

13

44,8

49

59

p>0,05

Kích động

1

1,9

1

3,4

2

2,4

p>0,05

Gây hấn

1

1,9

1

3,4

2

2,4

p>0,05

Tăng vận động

4

7,4

3

10,3

7

8,4

p>0,05

Giảm vận động

12

22,2

13

44,8

25

30,1

p<0,05

Khác

1

1,9

0

0

1

1,2

p>0,05

 

- Nhóm đối tượng có HVTP giảm vận động chiếm tỷ lệ cao nhất  30,1%.

- Nhóm đối tượng có HVTP khác chiếm tỷ lệ thấp nhất 1,2%.

- Sự khác biệt về giảm vận động giữa các giới có ý nghĩa thống kê với p<0,05

3.2.6. Các kỹ năng sống

Biểu đồ 3.4. Phân bố kỹ năng sống của đối tượng nghiên cứu

          - Kỹ năng tính toán và suy luận kém củađối tượngchiếm tỷ lệ cao  90,4%.

- Kỹ năng đọc viết kém của đối tượng cũng có tỷ lệ cao 86,7%.

- Chỉ có 9,6% đối tượng có kỹ năng làm việc nhà, giao tiếp và tự CSBT.

- Sự khác biệt giữa nam và nữ không có ý nghĩa thống kê  (p>0,05).

3.2.7. Các tật chứng tác phong

Bảng 3.8. Phân bố tật chứng tác phong theogiới của đối tượng nghiên cứu

Tật chứng

Nam (n=54)

Nữ (n = 29)

Tổng số (n = 83)

p

n

%

n

%

n

%

Có tật chứng

30

55,6

14

48,3

44

53

p>0,05

Đi lang thang

20

37

7

24,1

27

32,5

Đập phá đồ đạc

12

22,2

10

34,5

22

26,5

Hành hung

15

27,8

6

20,7

21

25,3

Ném đá

2

3,7

1

3,4

3

3,6

Nhặt đồ phế thải

1

1,9

0

0

1

1,2

Khác

4

7,4

0

0

4

4,8

Tuổi xuất hiện

18,65±6,864

18,718±7,740

18,68±7,083

 

- Tỷ lệ đối tượng có tật chứng tác phong 53% (nam: 55,6%; nữ: 48,3%).

- Trong đó tật chứng đi lang thang chiếm tỷ lệ cao nhất 32,5%; Nhặt đồ phế thải chiếm tỷ lệ thấp nhất 1,2%

- Tuổi xuất hiện tật chứng là 18,68±7,083.

- Sự khác biệt về tật chứng theo giới không có ý nghĩa thống kê  (p>0,05).

3.2.8. Mức độ Chậm phát triển tâm thần và chỉ số IQ

3.2.8.1. Mức độ Chậm phát triển tâm thần

Bảng 3.9. Phân bố mức độ chậm phát triển tâm thần  của đối tượng nghiên cứu

Mức độ

Nam (n=54)

Nữ (n = 29)

Tổng số (n = 83)

p

n

%

n

%

n

%

Nhẹ

22

40,7

5

17,2

27

32,5

p<0,05

Trung bình

30

55,6

14

48,3

44

53

Nặng

2

3,7

9

31

11

13,3

Nghiêm trọng

0

0

1

3,4

1

1,2

 

- Nhóm đối tượng có mức độ CPTTT trung bình chiếm tỷ lệ cao nhất  53%.

- Nhóm đối tượng có mức độ CPTTT nặng và nghiêm trọng chiếm tỷ lệ thấp lần lượt là 13,3% và 1,2%.

- Sự khác biệt về mức độ CPTTT theo giới có ý nghĩa thống kê với p<0,05.

3.2.8.2. Chỉ số IQ

Biểu đồ 3.5. Phân bố chỉ số IQ của đối tượng nghiên cứu

- Tỷ lệ đối tượng có IQ CPTTT nhẹ cao nhất 36,1%.

- Đối tượng có IQ bình thường có tỷ lệ cao 34,9%, IQ mức độ CPTTT nghiêm trọng có tỷ lệ thấp hơn  24,1%, mức độ CPTTT trung bình chiếm 3,6%, thấp nhất là mức độ CPTTT nặng 1,2%.

- Sự khác biệt về chỉ số IQ giữa nam và nữ có ý nghĩa thống kê  (p<0,05).

3.2.9. Mối tương quan giữa CPTTT và IQ

Bảng 3.10. Mối tương quan giữa chẩn đoán và chỉ số IQ

Mối tương quan

Tương quan Pearson

Chẩn đoán lâm sàng và Chỉ số IQ (Test Raven)

r =- 0,5001

p =0,0001

n =83

 

-Qua bảng 3.10 cho thấy ở trong nhóm đối tượng nghiên cứu chỉ có mối quan hệ nghịch biến ở mức độ trung bình giữa chẩn đoán lâm sàng và chỉ số IQ (Test Raven) với r =0,5001 (p<0,05).

3.3. MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN CỦA ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

3.3.1.  Bất thường trong giai đoạn chu sinh và phát triển tâm thần vận động

Biểu đồ 3.6. Phân bố bất thường chu sinh và phát triển tâm thần vận động

- Tỷ lệ đối tượngcó bất thường trong giai đoạn chu sinh 39,8%.

- Tỷ lệ đối tượng có bất thường trong phát triển tâm thần vận động 97,6%.

- Tỷ lệ đối tượng có khuyết tật kèm theo 14,5%.

- Sự khác biệt giữa nam và nữ không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.

- Trong đó:

+ Khuyết tật về nghe nói: 9; khuyết tật về vận động: 2; khuyết tật về nhìn: 1.

+ Tuổi biết đi, biết nói:

Độ tuổi

Đối tượng

Tổng số

(n = 83)

p

Nam (n=54)

Nữ (n = 29)

X

SD

X

SD

X

SD

Biết đi

3,262

1,9669

2,840

1,1790

3,104

1,7179

p>0,05

Biết nói

4,341

2,8094

3,981

1,4999

4,201

2,3806

 

Độ tuổi biết đi, biết nói của nam luôn chậm hơn nữ, sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê với p>0,05

3.3.2. Tiền sử bản thân của đối tượng nghiên cứu

Bảng 3.11. Tiền sử bản thân của đối tượng nghiên cứu

TSBT

Đối tượng

Tổng số

(n = 83)

p

Nam (n=54)

Nữ (n = 29)

n

%

n

%

n

%

SCTL hiện tại

0

0

18

62,1

18

21,7

p<0,05

Sử dụng chất

8

14,8

1

3,4

9

10,8

p>0,05

Cai nghiện

2

3,7

0

0

2

2,4

p>0,05

Bệnh mạn tính

15

27,8

14

48,3

29

34,9

p>0,05

Động kinh

13

24,1

11

37,9

24

28,9

p>0,05

 

- Đối tượng có SCTL hiện tại chiếm tỷ lệ 21,7%, chủ yếu là nữ (bị hại). Sự khác biệt về SCTL hiện tại giữa nam và nữ có ý nghĩa thống kê với p<0,05.

- Đối tượng sử dụng chất có tỷ lệ 10,8%, trong đó số cai nghiện chỉ 2,4%.

- Đối tượng mắc bệnh mạn tính có tỷ lệ 34,9%, trong đó Động kinh chiếm đến 28,9%.

3.3.3. Tình hình khám chuyên khoa tâm thần và quá trình điều trị

Biểu đồ 3.7. Quá trình khám, điều trị CK tâm thầncủa đối tượng nghiên cứu

- Đối tượng có khám chuyên khoa tâm thần chiếm tỷ lệ   44,6%. 

- Trong đó bỏ điều trị và điều trị không ổn định có tỷ lệ 33,7%, chỉ có 10,8% đối tượng điều trị ổn định.

- Sự khác biệt giữa nam và nữ không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.

3.3.4. Tiền sử gia đình của đối tượng nghiên cứu

Bảng 3.12. Tiền sử gia đình của đối tượng nghiên cứu

Tiền sử gia đình

Nam (n=54)

Nữ (n = 29)

Tổng số(n = 83)

p

n

%

n

%

n

%

Nghiện rượu

2

3,7

0

0

2

2,4

p>0,05

Rối loạn tâm thần

32

59,3

14

48,3

46

55,4

Quan hệ

Cha mẹ

13

24,1

3

10,3

16

19,3

Cô, dì, chú, bác

13

24,1

8

27,6

21

25,3

Anh, chị, em

5

9,3

3

10,3

8

9,6

Khác

1

1,9

0

0

1

1,2

 

- Tiền sử gia đình: có người thân nghiện rượu 2,4%; Có người thân mắc các rối loạn tâm thần chiếm tỷ lệ 55,4%, trong đó mức quan hệ cha, mẹ 19,3%; Cô, dì, chú, bác 25,3%; Anh, chị, em 9,6%; Khác 1,2%.

- Sự khác biệt giữa nam và nữ không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.

3.4. MỘT SỐ YẾU TỐ THÚC ĐẨY HÀNH VI PHẠM TỘI CỦA ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU.

3.4.1.  Mục đích của hành vi phạm tội của đối tượng nghiên cứu

Bảng 3.13. Phân bố mục đích của hành vi phạm tội của đối tượng nghiên cứu

Mục đích của HVPT

Nam (n=54)

Nữ (n=11)

Tổng cộng (n=65)

p

n

%

n

%

n

%

 Vụ lợi

36

66,7

6

54,5

42

64,6

p>0,05

Trả thù

7

13

2

18,2

9

13,8

Bản năng

10

18,5

1

9,1

11

16,9

Không MĐ

1

1,9

2

18,2

3

4,6

- Tỷ lệ đối tượng có mục đích hành vi phạm tội vụ lợi chiếm tỷ lệ cao nhất 64,6%, thỏa mãn bản năng có tỷ lệ 16,9%,mục đích trả thù chiếm tỷ lệ thấp hơn 13,8% không mục đích có tỷ lệ thấp nhất 4,6%,.

- Sự khác biệt về mục đích hành vi phạm tội giữa hai giới không có ý nghĩa thống kê  (p>0,05).

3.4.2.  Địa điểm gây án của đối tượng nghiên cứu

Biểu đồ 3.8. Phân bố theo địa điểm gây án của đối tượng nghiên cứu

- Tỷ lệ địa điểm gây án là nhà nạn nhân chiếm tỷ lệ cao nhất 56,9%, nơi công cộng có tỷ lệ 33,8%, nhà tội phạm chiếm tỷ lệ thấp nhất3,1%.

- Sự khác biệt về mục đích hành vi phạm tội giữa hai giới không có ý nghĩa thống kê  (p>0,05).

3.4.3.  Phương tiện và nguồn gốc phương tiện gây án

3.4.3.1. Phương tiện gây án của đối tượng nghiên cứu

Bảng 3.14. Các phương tiện sử dụng gây án ở đối tượng nghiên cứu

Phương tiện gây án

Nam (n=54)

Nữ (n=11)

Tổng số (n=65)

p

n

%

n

%

n

%

Sức mình

40

74,1

7

63,6

47

72,3

p>0,05

 Thô sơ

11

20,4

3

27,3

14

21,5

Vật liệu cháy nổ và hóa chất

2

3,7

0

0

2

3,1

Khác

1

1,9

1

9,1

2

3,1

- Tỷ lệ phương tiện gây án sử dụng chính sức mình chiếm tỷ lệ cao nhất 72,3%;dụng cụ thô sô có tỷ lệ 21,5%;dụng cụ khác,vật liệu cháy nổ và hóa chất cùng chiếm tỷ lệ thấp nhất 3,1%.

- Sự khác biệt về phương tiện gây án giữa hai giới không có ý nghĩa thống kê  (p>0,05).

3.4.3.2. Nguồn gốc phương tiện gây án của đối tượng nghiên cứu

Biểu đồ 3.9. Nguồn gốc phương tiệngây án của đối tượng nghiên cứu

- Tỷ lệ không có phương tiện gây án chiếm tỷ lệ cao 56,9%, nguồn gốc phương tiện có sẵn có tỷ lệ 26,2%; đối tượng tự mang đến chiếm tỷ lệ thấp 16,9%.

- Sự khác biệt về nguồn gốc phương tiện gây án giữa nam và nữ không có ý nghĩa thống kê  (p>0,05).

3.4.4.  Yếu tố thúc đẩy hành vi phạm tội của đối tượng nghiên cứu

Bảng 3.15.  Các yếu tố thúc đẩy hành vi phạm tội ở đối tượng nghiên cứu

Yếu tố thúc đẩy HVPT

Nam (n=54)

Nữ (n = 11)

Tổng số(n = 65)

p

n

%

n

%

n

%

Bị xa lánh

0

0

1

9,1

1

1,5

p>0,05

Mặc cảm, tự ti

1

1,9

0

0

1

1,5

Stress

1

1,9

0

0

1

1,5

RL tâm thần

2

3,7

0

0

2

3,1

Sử dụng chất

2

3,7

0

0

2

3,1

Sử dụng rượu

2

3,7

0

0

2

3,1

Bị xúi giục

6

11,1

1

1,9

7

10,8

Khác

1

1,9

1

1,9

2

3,1

Không xác định

39

72,2

8

72,7

47

72,3

 

-Không xác định được yếu tố thúc đẩy hành vi phạm tội chiếm tỷ lệ cao 72,3%;

- Đối tượng phạm tội do bị xúi giục có tỷ lệ 10,8%.

- Các yếu tố thúc đẩy hành vi phạm tội do rối loạn tâm thần, sử dụng chất, sử dụng rượu, yếu tố khác cùng chiếm tỷ lệ 3,1%;

- Các yếu tố bị xa lánh, mặc cảm tự ti, stressđều có tỷ lệ rất thấp 1,5%.

- Sự khác biệt về các yếu tố thúc đẩy hành vi phạm tội giữa nam và nữ không có ý nghĩa thống kê  (p>0,05).

3.4.5.  Tội danh của đối tượng nghiên cứu

Bảng 3.16.  Các tội danh của đối tượng nghiên cứu

Tội danh

Nam (n=54)

Nữ (n=11)

Tổng số (n=65)

p

n

%

n

%

n

%

Trộm cắp

30

55,6

5

45,5

35

53,8

p<0,05

Hiếp dâm

7

13

0

0

7

10,8

Giết người

4

7,4

2

18,2

6

9,2

Cố ý gây TT

5

9,3

1

9,1

6

9,2

Tội khác

4

7,4

0

0

4

6,2

Cướp giật

3

5,6

0

0

3

4,6

Vi phạm ATGT

1

1,9

1

9,1

2

3,1

Đánh bạc

0

0

1

9,1

1

1,5

Mua bán MT

0

0

1

9,1

1

1,5

- Tỷ lệ trộm cắp có tỷ lệ cao nhất 53,8%, tiếp theo hiếp dâm có tỷ lệ 10,8%.

- Giết người và cố ý gây thương tích có cùng tỷ lệ  9,2%.

- Tội khác, cướp giật, vi phạm an toàn giao thông chiếm các tỷ lệ lần lượt 6,2%; 4,6%, 3,1%.cùng có tỷ lệ 7,3%.

- Đánh bạc và mua bán ma túy cùng chiếm tỷ lệ thấp nhất 1,5%.

- Sự khác biệt về các tội danh giữa nam và nữ có ý nghĩa thống kê  (p<0,05).

3.4.6.  Hậu quả và tác hại hành vi phạm tội của đối tượng nghiên cứu

Bảng 3.17. Hậu quả tác hại do hành vi phạm tội gây ra

Hậu quả

Nam (n=54)

Nữ (n=11)

Tổng số (n=65)

p

n

%

n

%

n

%

Thiệt hại TS

36

66,7

5

45,5

41

63,1

p>0,05

Gây T. tích

6

11,1

2

18,2

8

12,3

Chết người

5

9,3

2

18,2

7

10,8

Bị hiếp dâm

6

11,1

0

0

6

9,2

Gây rối TT

1

1,9

1

9,1

2

3,1

Khác

0

0

1

9,1

1

1,5

- Tỷ lệ thiệt hại tài sản chiếm tỷ lệ cao nhất 63,1%; gây thương tích chiếm tỷ lệ 12,3%;chết người có tỷ lệ 10,8%; bị hiếp dâm có tỷ lệ thấp nhất 9,2%.

- Sự khác biệt về hậu quả hành vi phạm tội giữa nam và nữ không có ý nghĩa thống kê  (p>0,05).

3.4.7.  Sự liên quan của nạn nhân với đối tượng nghiên cứu

Bảng 3.18. Sự liên quan của nạn nhân với đối tượng nghiên cứu.

Sự liên quan của N.nhân

Nam (n=54)

Nữ (n=11)

Tổng số (n=65)

p

n

%

n

%

n

%

Không quen

22

40,7

6

54,5

28

43,1

p>0,05

Hàng xóm

23

42,6

3

27,3

26

40

Bạn bè

4

7,4

1

9,1

5

7,7

Người thân

3

5,6

1

9,1

4

6,2

Khác

2

3,7

0

0

2

3,1

 

- Tỷ lệ nạn nhân là người không quen biết chiếm tỷ lệ cao nhất 43,1%; Nạn nhân là hàng xóm có tỷ lệ 40%; Nạn nhân là bạn bè và người thân có các tỷ lệ lần lượt là7,7% và 6,2%;Nạn nhân là đối tượng khác chiếm tỷ lệ thấp nhất 3,1%.

- Sự khác biệt về sự liên quan của nạn nhân với đối tượng nghiên cứu giữa nam và nữ không có ý nghĩa thống kê  (p>0,05).

3.4.8.  Thực hiện hành vi phạm tội của đối tượng nghiên cứu

Biểu đồ 3.10. Thực hiện hành vi phạm tội của đối tượng nghiên cứu

- Tỷ lệ thực hiện đơn độc có tỷ lệ cao 70,8%; băng nhóm có tỷ lệ 29,2%.

- Sự khác biệt về thực hiện hành vi phạm tội giữa nam và nữ không có ý nghĩa thống kê  (p>0,05).

3.4.9.  Khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của đối tượng nghiên cứu

Bảng 3.19. Khả năng nhận thức và điều khiển hành vi

Khả năng NT và điều khiển HV

Nam (n=54)

Nữ (n=11)

Tổng số (n=65)

p

n

%

n

%

n

%

Mất

2

3,7

2

18,2

4

6,2

p>0,05

Hạn chế

52

96,3

9

81,8

61

93,8

- Tỷ lệ hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi chiếm tỷ lệ cao 93,8%, mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi có tỷ lệ là 6,2%.

- Sự khác biệt về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi giữa nam và nữ không có ý nghĩa thống kê  (p>0,05).

 

CHƯƠNG 4

BÀN LUẬN

 

4.1.  ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA NHÓM BỆNH NHÂN NGHIÊN CỨU

4.1.1. Tuổi của đối tượng nghiên cứu

Kết quả bảng 3.1 cho thấy tuổi trung bình trong nghiên cứu là 27,78 ± 9,711. Tuổi nhỏ nhất là 16 tuổi,lớn nhất là 68 tuổi. Nhóm tuổi 21-30 chiếm tỷ lệ cao nhất, 50,6% số đối tượng nghiên cứu. Độ tuổi ≤ 30 chiếm tỷ lệ 71,1%.

Kết quả này cũng tương đồng với kết quả trong nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Quang (2015-2019)  nhóm tuổi 22-30 chiếm tỷ lệ cao nhất 33,3%; Độ tuổi ≤ 30 chiếm tỷ lệ 61,4% [7]. Trong nghiên cứu củaVương Ngọc Hải và cộng sự (2019) trong các vụ án hình sự nhóm tuổi chủ yếu < 40; nhóm bị hại độ tuổi < 20 chiếm tỷ lệ cao nhất [6].

Ngoài ra, McLaren và Bryson (1987)[16] báo cáo rằng tỷ lệ chậm phát triển trí tuệ dường như tăng theo tuổi lên đến khoảng 20 tuổi, với nam nhiều hơn nữ giới đáng kể[49].

4.1.2. Tình trạng hôn nhân của đối tượng nghiên cứu

Bảng  3.2 cho thấy: nhóm chưa kết hôn 68đối tượng (81,9%); nhóm đã kết hôn 10đối tượng (12%); nhóm ly hôn 5đối tượng (6%).

Nguyễn Ngọc Quang (2019) nghiên cứu trên 57đối tượng tại Trung tâm pháp y tâm thần khu vực Tp Hồ Chí Minh(từ 03/2015 đến 06/2019), có 85,5% chưa lập gia đình, 14,5% đã lập gia đình [7], tương đương với kết quả nghiên cứu của chúng tôi.

Độ tuổi trung bình của nhóm đối tượng khi nghiên cứu là 27,78 ± 9,711, trong đó 87,9% chưa kết hôn và ly hôn là một tỷ lệ khá cao.Điều này có thể do đối tượng bên cạnh chậm phát triển tâm thần còn gặp khó khăn về giao tiếp ngôn ngữ, hạn chế về quan hệ xã hội, trình độ học vấn thấp cũng như không nghề nghiệp là một trong những lý do đưa đến đối tượng không thể tìm được người bạn đời khác giới.

4.1.3. Đặc điểm theo giới của đối tượng nghiên cứu

Biểu đồ  3.1 cho thấy: đa số đối tượng  nghiên cứu là nam 54 (65,1%); nữ chiếm 34,9% (29 đối tượng). Nhóm đối tượng bị hại 100% là nữ. Sự khác biệt giữa nam và nữ có ý nghĩa thống kê với p<0,05.

Nguyễn Ngọc Quang (2019) nghiên cứu trên 57 đối tượng với tỷ lệ nam 59,6% (34 đối tượng), nữ 40,4% (23 đối tượng) [7], tương đương với kết quả nghiên cứu của chúng tôi.

Theo nghiên cứu được công bố năm 2019 của Trung tâm Pháp y tâm thần khu vực Tây Nam Bộ cho thấytrong giám định hình sự thường gặp tội phạm nam và bị hại nữ[6].

Người ta thường đồng ý rằng MR thường gặp hơn ở nam giới, một phát hiện được cho là do nhiều đột biến gen trong nhiễm sắc thể X [17]. Tỷ lệ nam/nữ là 1,3 đến 1,9: 1 [41],[69].

4.1.4. Trình độ học vấn của đối tượng nghiên cứu

Về trình độ học vấn của nhóm đối tượng nghiên cứu, (bảng 3.3) cho thấy, chiếm cao nhất là tiểu học 48 (57,8%), Mù chữ 25 (30,1%), trung học cơ sở  10 (12%), không có bậc học cao hơn.

Theo Nguyễn Ngọc Quang (2019), có tiểu học 42,1%, THCS 10,5%; PTTH 1,8% và không học 45,6%[7]; Vương Ngọc Hải (2019) cho kết quả không biết chữ85,25%, không có đối tượng học trên cấp 2 (THCS) [6].

Như vậy, tỷ lệ học lên cao của đa số đối tượng của nhiều nghiên cứu là có vấn đề.

4.1.4. Đặc điểm nơi cư trú của đối tượng nghiên cứu

Qua biểu đồ 3.2, ta thấy tỷ lệ đối tượng sống ở nông thôn cao nhất 78,3%,  kế đến thành thị16,9%, thấp nhất là miền núi 4,8%.

Nguyễn Ngọc Quang (2019) nghiên cứu trên 57đối tượng tại Trung tâm Pháp y tâm thần khu vực Tp Hồ Chí Minh, có 57,9% sống ở Tp Hồ Chí Minh và 42,1%  sống ở tỉnh khác [7]; Trong nghiên cứu của Vương Ngọc Hải (2019) có kết quả 15,57% ở Tp Cần Thơ và 10,66% ở Đồng Tháp [6].

4.2. ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG CỦA ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

4.2.1. Thái độ tiếp xúc và giấc ngủ của đối tượng nghiên cứu

Kết quả bảng 3.4 cho thấy có 88% đối tượng nghiên cứu có thái độ tiếp xúc hợp tác, thái độ thờ ơ chiếm tỷ lệ 10,8%, không hợp tác chỉ có tỷ lệ 1,2%.

Kết quả bảng 3.5 cho thấy có 15,7% đối tượng nghiên cứu có rối loạn giấc ngủ. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về giấc ngủ giữa nam và nữ với p>0,05.

Kết quả này trong nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Quangcao hơn với tỷ lệ rối loạn giấc ngủ28,1% [7].

4.2.2. Đặc điểm ý thức và năng lực định hướng của đối tượng nghiên cứu

Kết quả bảng 3.5 cho thấy có 1,2% đối tượng nghiên cứu có rối loạn ý thức; có 13,2% đối tượng nghiên cứu có rối loạn về năng lực định hướng.  Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nam và nữ với p>0,05.

Kết quả này trong nghiên cứu của Nguyễn Ngọc quang cao hơn với tỷ lệ rối loạn ý thức8,8% [7].

4.2.3. Đắc điểm cảm xúc của đối tượng nghiên cứu

Kết quả bảng 3.6 cho thấy có 49,4% đối tượng nghiên cứu có rối loạn cảm xúc, trong đó khí sắc trầm chiếm tỷ lệ cao nhất 15,7%, không ổn định chiếm tỷ lệ 14,5%, thờ ơ có tỷ lệ 13,3%. Sự khác biệt về rối loạn cảm xúc nói chung và cảm xúc thờ ơ, không ổn định nói riêng giữa nam và nữ có ý nghĩa thống kê với p<0,05.

Kết quả trong nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Quangcho tỷ lệ rối loạn cảm xúc thấp hơn với tỷ lệ 36,8% [7].          

4.2.4. Đặc điểm tư duy của đối tượng nghiên cứu

Kết quả biểu đồ 3.3 cho thấy có 80,7% đối tượng nghiên cứu có tư duy chậm chạp, không nói chiếm tỷ lệ 4,8%, rối loạn khác chiếm tỷ lệ 2,4%, không rối loạnchiếm tỷ lệ 12%. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về rối loạn tư duy giữa nam và nữ với p>0,05.

Kết quả trong nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Quang cho các tỷ lệ sau có rối loạn chiếm tỷ lệ 26,3%, không rối loạn 73,7% [7].

4.2.5. Rối loạn hành vi tác phong của đối tượng nghiên cứu

Bảng 3.7 cho kết quả 59% đối tượng nghiên cứu không có biểu hiện rối loạn hành vi tác phong và trong số có rối loạn giảm vận động chiếm tỷ lệ cao nhất 30,1%; tăng vận động có tỷ lệ 8,4%; kích động và gây hấn cùng có tỷ lệ thấp 2,4%. Sự khác biệt về rối loạn hành vi tác phong giảm vận động giữa nam và nữ có ý nghĩa thống kê với p>0,05.

Nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Quang cho tỷ lệ rối loạn hành vi tác phong cao hơn với các tỷ lệ có rối loạn 98,2%; không rối loạn 1,8% [7].

4.2.6. Đặc điểm các kỹ năng sống của đối tượng nghiên cứu

Kết quả biểu đồ 3.5 cho thấy chiếm tỷ lệ cao  90,4%  đối tượng có  kỹ năng tính toán và suy luận kém. Kỹ năng đọc viết kém của đối tượng cũng có tỷ lệ cao 86,7%. Chỉ có 9,6% đối tượng có kỹ năng làm việc nhà, giao tiếp và tự CSBT ở mức độ trung bình. Sự khác biệt giữa nam và nữ không có ý nghĩa thống kê  (p>0,05).

Điều này đã được đề cập đến trong Mục (B) tiêu chuẩn chẩn đoán MR của DSM-IV TR: “Bị thiếu hụt hoặc khiếm khuyết ít nhất là hai trong số những hành vi thích ứng sau: giao tiếp, tự chăm sóc, sống tại gia đình, kĩ năng xã hội/ liên cá nhân, sử dụng tiện ích công cộng, tự định hướng, kĩ năng học đường chức năng lao động, giải trí, sức khoẻ và an toàn” [14].

4.2.7. Các tật chứng tác phong của đối tượng nghiên cứu

Bảng 3.8 cho kết quả tỷ lệ đối tượng có tật chứng tác phong 53% (nam: 55,6%; nữ: 48,3%). Trong đó tật chứng đi lang thang chiếm tỷ lệ cao nhất 32,5%; Nhặt đồ phế thải chiếm tỷ lệ thấp nhất 1,2%. Tuổi xuất hiện tật chứng là 18,68 ± 7,083. Sự khác biệt về tật chứng theo giới không có ý nghĩa thống kê  (p>0,05).

Trong nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Quang tỷ lệ đối tượng có kèm theo các rối loạn khác chiếm tỷ lệ 40,4% [7].

Theo Benda, người có quan điểm dựa trên khả năng thích ứng của cá nhân: “Một người MR là người không có khả năng điều khiển bản thân và xử lý các vấn đề riêng của mình, hoặc phải được dạy mới biết làm. Họ có nhu cầu về sự giám sát, kiểm soát và chăm sóc cho sức khoẻ của bản thân mình và cần đến sự chăm sóc của cộng đồng”[8],[16].

Ngoài chỉ số IQ thấp, khả năng thích ứng kém thường là triệu chứng của cá nhân MR. Khả năng thích ứng có thể bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác nhau như giáo dục, động cơ, đặc điểm nhân cách, rối loạn tinh thần và những vấn đề sức khoẻ; các yếu tố này có thể xuất hiện cùng với tật MR[14]. Như vậy khả năng hỗ trợ của gia đình và cộng đồng trong việc chăm sóc và giáo dục cá nhân MR sẽ làm giảm thiểu tỷ lệ mắc tật chứng tác phong của đối tượng.

4.2.8. Mức độ MR và chỉ số IQ của đối tượng nghiên cứu

Kết quả bảng 3.9 cho thấy nhóm đối tượng có mức độ CPTTT trung bình chiếm tỷ lệ cao nhất  53%, nhóm đối tượng có mức độ CPTTT nặng và nghiêm trọng chiếm tỷ lệ thấp lần lượt là 13,3% và 1,2%. Sự khác biệt về mức độ CPTTT theo giới có ý nghĩa thống kê với p<0,05.

Nghiên cứu của Vương Ngọc Hải cho kết quả gần một nửa nhóm đối tượng là MR nhẹ, tỉ lệ MR trung bình xấp xỉ MR nặng (khoảng 22%) [6]. Kết quả của Nguyễn Ngọc Quang cho thấy có MR mức độ nhẹ 59,6%; MR mức độ trung bình 29,8%; MR mức độ nặng 7% [7].

Biểu đồ 3.5 cho kết quả tỷ lệ đối tượng có IQ MR nhẹ cao nhất 36,1%, đối tượng có IQ bình thường có tỷ lệ cao 34,9%, IQ mức độ MR nghiêm trọng có tỷ lệ thấp hơn  24,1%, mức độ MR trung bình chiếm 3,6%, thấp nhất là mức độ MR nặng 1,2%.Sự khác biệt về chỉ số IQ giữa nam và nữ có ý nghĩa thống kê  (p<0,05).

Như vậy giữa chẩn đoán lâm sàng và đánh giá chỉ số IQ có tỷ lệ chênh lệch.

Từ khi trắc nghiệm trí tuệ ra đời, qua nhiều năm nghiên cứu, đại đa số các chuyên gia đã thống nhất sử dụng các trắc nghiệm trí tuệ để xác định MR. Theo họ những người có chỉ số trí tuệ dưới 70 là chậm phát triển trí tuệ [16]. Tiêu chuẩn chẩn đoán MR theo ICD 10: MR mức độ nhẹ: chỉ số IQ từ 50 – 69; MR mức độ trung bình: chỉ số IQ từ 35 – 49; MR mức độ nặng: chỉ số IQ từ 20 – 34; MR mức độ rất nặng: chỉ số IQ <20 [9], [70]. Như vậy mối tương quan giữa mức độ MR và chỉ số IQ có quan hệ tuyến tính rất chặt chẽ.

Kết quả bảng 3.10 cho thấy ở trong nhóm đối tượng nghiên cứu chỉ có mối quan hệ nghịch biến ở mức độ trung bình giữa chẩn đoán lâm sàng và chỉ số IQ (Test Raven) với r = 0,5001 (p<0,05). Điều này có thể liên quan đến năng lực đánh giá chỉ số IQ của đối tượng thông qua test Raven của bộ phận Cận lâm sàng.

4.3. MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN CỦA ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

4.3.1. Bất thường trong giai đoạn chu sinh và phát triển tâm thần vận động

Kết quả ở biểu đồ 3.6 cho thấy tỷ lệ đối tượng có bất thường trong giai đoạn chu sinh 39,8%; Tỷ lệ đối tượng có bất thường trong phát triển tâm thần vận động 97,6%; Tỷ lệ đối tượng có khuyết tật kèm theo 14,5%. Sự khác biệt giữa nam và nữ không có ý nghĩa thống kê với p>0,05. Trong đó, Khuyết tật về nghe nói: 9; khuyết tật về vận động: 2; khuyết tật về nhìn: 1.

Điều này chứng tỏ các trường hợp MR phần lớn có bất thường sớm trong quá trình bào thai và đặc biệt quá trình phát triển tâm thần và vận động trong thời kỳ đầu chậm hơn nhiều so các trẻ bình thường với tuổi biết đi trung bình 3,104 ± 1,7179 và tuổi biết nói (bập bẹ) 4,201 ± 2,3806.        

4.3.2. Tiền sử bản thân của đối tượng nghiên cứu

Về tiền sử cá nhân, đối tượng có SCTL hiện tại chiếm tỷ lệ 21,7%, chủ yếu là nữ (bị hại). Sự khác biệt về SCTL hiện tại giữa nam và nữ có ý nghĩa thống kê với p<0,05; Đối tượng sử dụng chất có tỷ lệ 10,8%, trong đó số cai nghiện chỉ 2,4%; Đối tượng mắc bệnh mạn tính có tỷ lệ 34,9%, trong đó Động kinh chiếm đến 28,9% (bảng 3.11).

Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Quang cho thấy tỷ lệ đối tượng có bệnh cơ thể 29,8%, trong đó bệnh thần kinh 15,8%; đối tượng có sử dụng chất chỉ có 1,8% [7]. 

4.3.3.Tình hình khám chuyên khoa tâm thần và quá trình điều trị

Kết quả của nghiên cứu ở biểu đồ 3.7 cho thấy tỷ lệ có được khám chữa bệnh về chuyên khoa tâm thần (44,6%); điều trị không đúng cách hoặc bỏ điều trị (27,7%). Tỷ lệ điều trị liên tục chỉ chiếm tỷ lệ 16,8% trong đó điều trị ổn định là 10,8%. Kết quả này cho thấy đa số đối tượng không được điều trị đúng phương pháp hoặc không tuân thủ điều trị.

Trong nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Quang cũng cho kết quả tương tự với 58% đối tượng được khám chữa bệnh về chuyên khoa tâm thần và 42% không khám và điều trị về chuyên khoa tâm thần [7].

Điều này dẫn đến các rối loạn tâm thần cứ tiến triển liên tục và một số trường hợp ngày càng diễn biến xấu. Hệ quả là sự mất hoặc hạn chế khả năng nhận thức, điều khiển hành vi của các đối tượng nghiên cứu.

4.3.4. Tiền sử gia đình của đối tượng nghiên cứu

Tiền sử gia đình. Tỷ lệ đối tượng nghiên cứu có người thân mắc các rối loạn tâm thần 55,4%, có người thân nghiện rượu2,4% (bảng 3.12). Trong đó mức quan hệ gia đình của số đối tượng có người thân bị RLTT rất gần gũibao gồm mức quan hệ cha, mẹ 19,3%; Cô, dì, chú, bác 25,3%; Anh, chị, em 9,6%%.

Kết quả của Nguyễn Ngọc Quang có tỷ lệ thấp hơn với các tỷ lệ đối tượng có người thân bị RLTT 14%; Trong đó mức quan hệ  anh, chị, em 7%; Chú, bác, cô, dì 5,3%; Ông bà nội ngoại 1,7% [7].

4.4. MỘT SỐ YẾU TỐ THÚC ĐẨY HÀNH VI PHẠM TỘI CỦA ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

4.4.1. Mục đích của hành vi phạm tội của đối tượng nghiên cứu

Bảng 3.12 cho kết quả tỷ lệ mục đích phạm tội vì vụ lợi chiếm tỷ lệ cao nhất 64,6%; thỏa mãn bản năng16,9%;mục đích trả thù13,8%; không mục đích chỉ có tỷ lệ thấp 4,6%.

          Nhìn chung, đa số đối tượng phạm tội đều có mục đích nhưng do hạn chế về trí tuệ nên nhận thức về các quy tắc xã hội không đủ hoặc không có, từ đó dễ dẫn đến tình trạng phạm tội.

4.4.2.  Địa điểm gây án,phương tiện phạm tội của đối tượng nghiên cứu

Kết quả nghiên cứu ở biểu đồ 3.8 cho thấy địa điểm gây án có tỷ lệ cao nhất là nhà nạn nhân 56,9%; tiếp theo nơi công cộng chiếm tỷ lệ 33,8%, nhà của tội phạm3,1%, các nơi khác6,2%.

Bảng 3.13 cho kết quả các phương tiện sử dụng gây án của đối tượng nghiên cứu với sức lực của bản thân đối tượng có tỷ lệ cao nhất 72,3%; phương tiện thô sơ chiếm tỷ lệ 21,5%, các phương tiện khác chỉ chiếm tỷ lệ thấp 6,1%.

Biểu đồ 3.9 cho kết quả tỷ lệ sẵn có ở hiện trường của phương tiện phạm tội chiếm tỷ lệ 26,2%; các phương tiện đối tượng mang đến chỉ có 16,9% và không có phương tiện chiếm tỷ lệ cao 56,9%.

Các kết quả trên chứng tỏ hành vi phạm tội do đối tượng gây rakhông có dự mưu và chuẩn bị trước chủ yếu liên quan đến hành vi tức thời.

Nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Quang cho ra kết quả khác với các tỷ lệ sức lực của bản thân đối tượng có tỷ lệ 10,5%; phương tiện thô sơ chiếm tỷ lệ 5,3%, các phương tiện khác lại chiếm tỷ lệ cao 49,1% [7].

4.4.3.  Yếu tố thúc đẩy hành vi phạm tội của đối tượng nghiên cứu

Kết quả nghiên cứu ở bảng 3.14 cho thấy yếu tố thúc đẩy hành vi phạm tội ở đối tượng nghiên cứu chiếm tỷ lệ cao nhất là không xác định được yếu tố thúc đẩy hành vi phạm tội; Tỷ lệ đối tượng phạm tội do bị xúi giục có tỷ lệ 10,8%; Các yếu tố thúc đẩy hành vi phạm tội do rối loạn tâm thần, sử dụng chất, sử dụng rượu, yếu tố khác cùng chiếm tỷ lệ 3,1%; Các yếu tố bị xa lánh, mặc cảm tự ti, stress đều có tỷ lệ rất thấp 1,5%.

          Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Quang cho thấy không có yếu tố bệnh lý chi phối 31,6%; Có yếu tố bệnh lý chi phối 29,8%; Khó khăn về tài chính 19,3%; Mâu thuẫn trong gia đình 3,5%; Do sử dụng chất 1,8% [7].

          Điều này chứng tỏ đối tượng MR do hạn chế về trí tuệ nên dễ phạm tội do bị xúi giục và không biết kiềm chế bản thân.

4.4.4.  Tội danhhành vi phạm tội của đối tượng nghiên cứu

Kết quả nghiên cứu ở bảng 3.15 cho thấy tội danh trộm cắp chiếm tỷ lệ cao nhất 53,8%; Hiếp dâm 10,8%; Giết ngườivà Cố ý gây thương tích cùng chiếm tỷ lệ 9,2%; Các tội danh khác chỉ chiếm tỷ lệ thấp. Sự khác biệt về các tội danh giữa nam và nữ có ý nghĩa thống kê  (p<0,05).

Trong nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Quang cho kết quả tấn công tình dục chiếm tỷ lệ cao nhất 21,1%; Trộm cắp có tỷ lệ 17,5%; Cố ý gây thương tích 8,8%; Hủy hoại tài sản 7%; Cướp giật 5,3%; Tội danh khác 7% và tội danh giết người chỉ có 1,8% [7].

Điều này có thể lý giải do mục đích hành vi phạm tội của đối tượng phần lớn là vụ lợi, thỏa mãn bản năng và trả thù.

Qua nghiên cứu của một số tác giả cho thấy, những đối tượng MR với nền tảng là mức độ hạn chế về trí tuệ do đó họ thiếu các kỹ năng làm việc, làm việc cần có sự chỉ dẫn nên thường là thất nghiệp và sống lệ thuộc, bên cạnh đó ở họ vốn hiểu biết về xã hội, pháp luật kém, mối quan hệ xã hội bị thu hẹp, thậm chí có thể bị bỏ rơi, bị hắt hủi. Do đó họ dễ phạm phải những tội phạm mang tính chất tệ nạn xã hội như cờ bạc, trộm cắp, cướp giật…hoặc bị vướng vào các vụ việc như lừa đảo, hoặc bị lợi dụng trong các vụ việc vi phạm pháp luật khác. Những đối tượng MR cũng luôn có nhu cầu và ham muốn tình dục nhưng do nhận thức hạn chế, kém khả năng kiểm soát xung động, không có kiến thức về tình dục và vẫn muốn thỏa mãn nhu cầu của mình nên họ coi thường các quy tắc và chuẩn mực xã hội và trở thành tội phạm hiếp dâm. Mặt khác, khả năng kiểm soát những cơn xung động hành vi, cơn bùng nổ cảm xúc kém nên họ còn có thể phạm các tội mang tính chất bạo lực như cố ý gây thương tích thậm chí giết người…[62]

4.4.5.  Hậu quả của hành vi phạm tội của đối tượng nghiên cứu

Bảng 3.16 cho kết quả tác hại do hành vi phạm tội của đối tượng: chiếm tỷ lệ cao nhất là thiệt hại tài sản 63,1%; Gây thương tích 12,3%; Hậu quả chết người có tỷ lệ 10,8%; Bị hiếp dâm 9,2%; Gây rối trật tự 3,1%.

Trong nghiên cứu của Vương Ngọc Hải và cộng sự tại khu vực Tây Nam bộ (2019), chiếm 25,81% là thiệt hại tài sản; 24,19% xâm hại tình dục [6]. Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Quang cho các hậu quả gây thương tổn về tinh thần 56,1%; Thiệt hại tài sản 31,6%; Gây thương tích 10,5%; Hậu quả gây chết người 3,5% [7].

4.4.6.  Quan hệ của nạn nhân với đối tượng nghiên cứu

Kết quả nghiên cứu ở bảng 3.17 cho thấy Tỷ lệ nạn nhân là người không quen biết chiếm tỷ lệ cao nhất 43,1%; Nạn nhân là hàng xóm có tỷ lệ 40%; Nạn nhân là bạn bè và người thân có các tỷ lệ lần lượt là 7,7% và 6,2%; Nạn nhân là đối tượng khác chiếm tỷ lệ thấp nhất 3,1%.

Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Quang đưa ra các tỷ lệ nạn nhân là người không quen biết chiếm tỷ lệ cao nhất 73,6%; Nạn nhân là hàng xóm có tỷ lệ 26,4% [7].

 

4.4.7.  Thực hiện hành vi phạm tội của đối tượng nghiên cứu

Kết quả của biểu đồ 3.10 cho thấy tỷ lệ thực hiện hành vi phạm tội đơn độc chiếm tỷ lệ cao 70,8%; Phạm tội theo băng nhóm chỉ có tỷ lệ 29,2%. Sự khác biệt về thực hiện hành vi phạm tội giữa nam và nữ không có ý nghĩa thống kê  (p>0,05).

MR là một nhóm trạng thái bệnh lý có bệnh nguyên và bệnh sinh khác nhau, đặc trưng bằng sự sa sút tâm thần bẩm sinh hoặc mắc phải trong những năm đầu thời thơ ấu, tỷ lệ từ 0,5 đến 1,5% dân số [16],[62]. Biểu hiện lâm sàng đa dạng và phong phú, kết hợp giữa sự thiếu sót về cơ thể và những rối loạn tâm thần cũng như rối loạn về khả năng thích ứng. Người bệnh tin người, dễ bị ám thị nên dễ bị lợi dụng, ý chí yếu, kém tự chủ, chính vì những lý do đó mà đối tượng MR hay có những hành vi gây hại cho bản thân và cho người khác, làm mất trật tự an toàn xã hội nhiều khi đến mức tội phạm hình sự. Những trường hợp phạm tội theo băng nhóm, thường đối tượng là người bị kẻ khác rủ rê, xúi giục lợi dụng.

4.4.8.  Khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của đối tượng nghiên cứu

Kết quả của bảng 3.18 cho thấy tỷ lệ hạn chế khả năng nhận thức và/hoặc khả năng điều khiển hành vi chiếm tỷ lệ cao 93,8%; mất khả  năng nhận thức và/hoặc khả năng điều khiển hành vi có tỷ lệ 6,2%.Sự khác biệt về thực hiện hành vi phạm tội giữa nam và nữ không có ý nghĩa thống kê  (p>0,05).

          Nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Quang đưa ra kết quả khá tương đồng với các tỷ lệ hạn chế khả năng nhận thức và/hoặc khả năng điều khiển hành vi chiếm tỷ lệ cao 87,7%; Mất khả  năng nhận thức và/hoặc khả năng điều khiển hành vi có tỷ lệ 8,8%; Đủkhả năng nhận thức và/hoặc khả năng điều khiển hành vi chiếm tỷ lệ 3,5% [7].

KẾT LUẬN

Trong thời gian từ tháng 7 năm 2015 đến tháng 6 năm 2020, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và một số yếu tố liên quan thúc đẩy hành vi phạm tội, các đối tượng chậm phát triển tâm thần trong giám định pháp y tâm thần trên 83 đối tượng được giám định nội trú tại Trung tâm Pháp y tâm thần khu vực Miền Trung, trong đó bị hại 18 (toàn bộ là nữ). Qua kết quả nghiên cứu được trình bày ở trên, chúng tôi xin được đưa ra một số kết luận sau:

1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu

- Tuổi trung bình là 27,78 ± 9,711 tuổi.Đối tượng nghiên cứu: nam65,1%; nữ 34,9% .

- Tình trạng hôn nhân:chưa kết hôn81,9%, ly hôn 6%, đã kết hôn 12%.

- Học vấn: Mù chữ 30,1%; Tiểu học 57,8%; Trung học cơ sở  12%. Như vậy, tỷ lệ học lên cao của đa số đối tượng gặp khó khăn do hạn chế về trí tuệ.

- Nơi cư trú tỷ lệ ở thành thị  16,9%;  Nông thôn 78,3%; Miền núi 4,8%.

2. Đặc điểm lâm sàng của đối tượng nghiên cứu

- Có 49,4% đối tượng nghiên cứu có rối loạn cảm xúc.

- Có 80,7% đối tượng nghiên cứu có tư duy chậm chạp.

- 41% đối tượng nghiên cứu có rối loạn hành vitác phong (giảm vận động 30,1%; gia tăng vận động 8,4%). Sự khác biệt về hành vi tác phong giảm vận động giữa các giới có ý nghĩa thống kê với p<0,05.

- Đa số đối tượng nghiên cứu có kỹ năng suy luận và tính toán kém 90,4%; Kỹ năng đọc viết kém 86,7%. Chỉ có 9,6% số đối tượng nghiên cứu có kỹ năng làm việc nhà, giao tiếp và tự chăm sóc bản thân ở mức trung bình.

- Có 53% số đối tượng nghiên cứu có tật chứng tác phong trong đó chủ yếu là đi lang thang (32,5%), đập phá đồ đạc (26,5%), hành hung người xung quanh (25,3%). Tuổi xuất hiện tật chứng trung bình 18,68 ± 7,083.

- Mức độ chậm phát triển tâm thần của đối tượng nghiên cứu: Nhẹ 32,5%; Trung bình 53%; Nặng 13,3%; Nghiêm trọng 1,2%.

3. Các yếu tố liên quan của đối tượng nghiên cứu

- Có 39,8% số đối tượng có bất thường trong giai đoạn chu sinh.

- Có 97,6% số đối tượng có bất thường trong giai đoạn phát triển tâm thần và vận động. Chậm biết đi (3,104 ± 1,7179), chậm biết nói (4,201 ± 2,3806). Tỷ lệ đối tượng có khuyết tật kèm theo 14,5%.

- Tỷ lệ đối tượng có động kinh 28,9%.

- Tỷ lệ đối tượng có người thân bị rối loạn tâm thần 55,4%.

4. Các yếu tố thúc đẩy hành vi phạm tội của đối tượng nghiên cứu

- Mục đích phạm tội: vụ lợi 64,6%; Thỏa mãn bản năng 16,9%; Trả thù 13,8%; Không mục đích 4,6%.

- Địa điểm gây án: Nhà nạn nhân 56,9%; Nơi công cộng 33,8%.

- Phương tiện gây án: Bằng sức của đối tượng 72,3%; Thô sơ 21,5%. Có sẵn tại chỗ 26,2%; Mang nơi khác đến 16,9%; Không có phương tiện gây án 56,9%.

- Yếu tố thúc đẩy phạm tội: Không xác định72,3%; Bị xúi giục 10,8%.

- Tội danh trộm cắp chiếm tỷ lệ 53,8%; Hiếp dâm 10,8%; Giết người và cố ý gây thương tích cùng có tỷ lệ 9,2%.

- Hậu quả hành vi phạm tội:Thiệt hại tài sản 63,1%; Gây thương tích 12,3%; Chết người 10,8%; Bị hiếp dâm 9,2%.

- Sự liên quan của nạn nhân: Không quen biết chiếm 43,1%; Hàng xóm 40%; Bạn bè 7,7%; Người thân 6,2%.

- Khả năng nhận thức và điều khiển hành vi: Hạn chế 93,8%; Mất 6,2%.

Tóm lại, nghiên cứu này chỉ được tiến hành trên nhóm đối tượng vào giám định pháp y tâm thần tại Trung tâm Pháp y tâm thần khu vực Miền Trung, nên kết quả không mang tính đại diện. Để có góc nhìn sâu hơn, toàn diện hơn cần có nghiên cứu trong cộng đồng với cỡ mẫu thích hợp. Tuy nhiên, để có thể chẩn đoán Chậm phát triển tâm thần một cách cụ thể và tương đối chính xác, các nhà chuyên môn phải làm việc trong một nhóm cộng tác đa chức năng và phải có những kiến thức tổng hợp về tâm lý, y học, giáo dục, xã hội…Vấn đề cần đặt ra sau khi xác định một người là Chậm phát triển tâm thầnvà bị hạn chế về kỹ năng thích nghi, thì cần tiến hành đánh giá xem người đó cần hỗ trợ cái gì.Hiện nay, không có liệu pháp nào được chứng minh là có hiệu quả đối với Chậm phát triển tâm thần; không có loại thuốc nào có thể cải thiện chức năng trí tuệ. Do đó, câu hỏi đặt ra là chúng ta có thể cung cấp những can thiệp nào cho gia đình, đối tượng để hỗ trợ, giúp họ hoạt động tốt nhất. Đây là một vấn đề phức tạp phụ thuộc vào cả độ tuổi và mức độ hoạt động của đối tượng./.

 

KIẾN NGHỊ

          Qua nghiên cứu ở 83 đối tượng chậm phát triển tâm thần trong giám định pháp y tâm thần giám định nội trú tại Trung tâm Pháp y tâm thần khu vực Miền Trung, chúng tôi đề xuất một số kiến nghị sau: 

          - Cần phổ biến kiến thức cho người dân về Chậm phát triển tâm thần.

          - Tăng cường công tác sàng lọc sơ sinh trong cộng đồng.    

          - Các ngành Lao động- Thương binh và Xã hội, Y tế, Giáo dục cần đào tạo và huấn luyện cho các bác sĩ, điều dưỡng, cán bộ tâm lý học, giáo viên chuyên biệt, nhân viên xã hội những kiến thức cơ bản về quản lý, giáo dục, can thiệp và hỗ trợ những kỹ năng; Đồng thời thành lập các Trung tâm giáo dục, hỗ trợ cho người Chậm phát triển tâm thần....

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

TIẾNG VIỆT

1. Báo cáo tổng kết hoạt động năm 2016 (2017), Trung tâm Pháp y tâm thần khu vực miền Trung, tháng 01 năm 2017.

2. Báo cáo tổng kết hoạt động năm 2017 (2018), Trung tâm Pháp y tâm thần khu vực miền Trung, tháng 01 năm 2018.

3. Báo cáo tổng kết hoạt động năm 2018 (2019), Trung tâm Pháp y tâm thần khu vực miền Trung, tháng 01 năm 2019.

4. Báo cáo tổng kết hoạt động năm 2019 (2019), Trung tâm Pháp y tâm thần khu vực miền Trung, tháng 12 năm 2019.

5. Phan Thị Anh (2016), Hành vi phạm tội ở bệnh nhân Chậm phát triển tâm thần, Luận văn Thạc sỹ tâm lý học, Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.

6. Vương Ngọc Hải và cộng sự (2019), Nghiên cứuđặc điểm các đối tượng Chậm phát triển tâm thần và các yếu tố liên quan trong tố tụng tại TTPYTTKV Tây Nam bộ, Nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, http://pytttaynambo.com/danh-muc-bai-viet/18/hoat-dong-khoa-hoc. Tháng 01, 2020.

7. Nguyễn Ngọc Quang (2019), Nghiên cứuđặc điểm lâm sàng Chậm phát triển tâm thần và các yếu tố liên quan trong giám định pháp y tâm thần, Luận văn Bác sỹ CKII, Trường Đại học Y Dược Huế.

8.Trần Lệ Thu, Han Van Esch (2000), Một số vấn đề cơ bản về chậm phát triển trí tuệ,Giáo trình giảng dạy đại học, Trung tâm Đào tạo và phát triển giáo dục đặc biệt,Đại học Sư phạm, Hà Nội.

9.Tổ chức Y Tế Thế giới (1993). ICD-10F – Phân loại các rối loạn tâm thần và hành vi. Tiêu chuẩn chẩn đoán dành cho nghiên cứu. Chủ trì biên dịch Trần Viết Nghị.

TIẾNG ANH

10. Aicardi, J. (1998). The etiology of developmental delay. Seminars in Pediatric Neurology, (1):15-20.

11. Akbarian S. The neurobiology of  Rett syndrome. Neuroscientist. 2003;9(1):57-63.        

12.American Association on Intellectual and Developmental Disabilities. (2002). Mental Retardation: Definition, Classification and Systems of Supports 10th ed. Washington DC: AAIDD.

13. American Association on Mental Retardation (AAMR). (2000). Available at: http://www.AAMR.org. May, 2000.

14. American Psychiatric Association (APA) (2000),  Diagnostic and Statistical Methnual of Mental Disorders Fourth Edition (DSM-IV TR), Washington DC.

15. Amir RE, Wan M, Francke U, et al.(1999), Rett syndrome is caused by mutations in X-linked MECP2, encoding methyl-CpG-binding protein 2. Nat Genet. 23(2):185-8.

16. Armatas, V. (2009). Mental retardation: definitions, etiology, epidemiology and diagnosis. Journal of Sport and Health Research. 1(2):112-122.

17. Baird, P.A., Sadovnick, A. D. (1985), Mental retardation in over half-a-million conservative livebirths: An epidemiological study. American Journal of Mental Deficiency, 89, 323-330.

18. Baraitser M, Winter RM., (1996), London dysmorphology database. New York: Oxford University Press, 1996.

19. Baroff, G.S. (1991), Developmental disabilities: Psychological aspects. Austin, TX: Pro-Ed.

20. Batshaw M.L., Perret Y.M., (1992), Children with disabilities: A medical primer (3rd ed.), Baltimore: Paul H. Brookes Publishing Co.

21.Benítez-Bribiesca L, Rosa-Alvarez I, Mansilla-Olivares A.(1999), Dendritic spine pathology in infants with severe protein-calorie malnutrition. Pediatrics. 1999;104(2):e21.

22. Borthwick-Duffy S.A, (1994), Epidemiology and prevalence of psychopathology in people with mental retardation. J Consul Clin Psych. 1994;62:17-27.

23. Branchi I, Bichler Z, Berger-Sweeney J, Ricceri L. (2003), Animal models of mental retardation: from gene to cognitive function. Neurosci Biobehav Rev. 2003;27:141-53.

24. Bregman, J. D. (1991), Current developments in the understanding of mental retardation. Part ll: Psychopathology. Journal of the American Academy of Child and Adolescent Psychiatry, 30, 861- 872.

25. Calverley RK, Jones DG. Contributions of dendritic spines and perforated synapses to synaptic plasticity. Brain Res Brain Res Rev. 1990;15:215-49. 

26. Campbell J.M., Morgan S.B., Jackson, J.N. (2004). Autism spectrum disorders and mental retardation. In Brown R.T. (Ed) Handbook of pediatric psychology in school settings. New Jersey: Lawrence Erlbaum Associates.

27. Chechlacz M, Gleeson JG. Is mental retardation a defect of synapse structure and function? Pediatr Neurol. 2003;29(1):11-17. 

28. Cravioto J, Arrieta M. Effecto de la desnutrición sobre el desarrollo neurointegrativo del niño. Bol Med Hosp Inf Mex. 1982;39:708-24.

29. Curry CJ, Stevenson RE, Aughton D, et.al. (1997). Evaluation of mental retardation: recommendations of a consensus conference. Am J Med Genet;72(4):468-77

30. Daily, D.K., Ardinger H.H., Holmes G.E. (2000), Identification  and evaluation of mental retardation. American Family Physician, 61(4):1059-1067, 62(5):961-963.

31. Delange, F. (1994). The disorders induced by iodine deficiency. Thyroid, 4(1):107-128.

32. DeLong GR. Effects of nutrition on brain development in humans. Am J Clin Nutr. 1993;57:286-90.        

33. Dimauro S, Moraes CT. (1993). Mitochondrial encephalomyopathies.Arch Neurol; 50:1197-1208.

34. Durkin, M.S., Khan, N.Z., Davidson, L.L., et al. (2000). Prenatal and postnatal risk factors for mental retardation among children in Bangladesh. Am. J. Epidemiol. 152(11):1024-1033.

35. Flint J., Wilkie A.O.M., Buckle V.J., et al. (1995). The detection of sub telomeric chromosomal rearrangements in idiopathic mental retardation. Nature Genet. 9:132-140.

36. Gaitan, E., Dunn, J.T. (1992). Epidemiology of iodine deficiency.Trends in endocrinology and metabolism, 3(5):170-175.

37. Harper, P.S. (1993). Practical Genetic Counselling. 4th ed. Oxgord:  Butterwoth Heinemann.

38. Jin P, Warren ST. New insights into fragile X syndrome: from molecules to neurobehaviors. Trends Bioch Sci. 2003;28(3):152-8. 

39. Johnston MV. Brain plasticity in paediatric neurology. Eur J Paediatr Neurol. 2003;7:105-13.               

40. Jones KL, Smith DW. Smith's recognizable patterns of human malformation. 5th ed. Philadelphia: Saunders, 1997.

41. Kabra M, Gulati S. Mental retardation. Indian J Pediatr. 2003;70(2):153-8.   

42. Kahler SG, Fahey MC. Metabolic disorders and mental retardation. Am J Med Genet. 2003;117C:31-41.        

43. Kandel ER. Nerve cells and behavior. In: Kandel ER, Schwartz JH, Jessell TM. Principles of Neural Science. 4th ed. New York: McGraw-Hill; 2000. p. 19-35.       

44. Kandel ER. The molecular biology of memory storage: a dialogue between genes and synapses. Science. 2001;294:1030-38.        

45. Kaufmann WE, Moser HW. Dendritic anomalies in disorders associated with mental retardation. Cereb Cortex. 2000;10:981-91.        

46. Kolevzon, A., Gross, R., Reichenberg, A. (2007). Prenatal and Perinatal Risk Factors for Autism: A Review and Integration of Findings. Arch Pediatr Adolesc Med, 161(4):326-333.

47. Leonard, H., & Xingyan Wen, X. (2002). The epidemiology ofmental retardation: Challenges and opportunities in the new millennium. Mental Retardation and Developmental Disabilities Research Reviews, 8(3):117-134.

48. McKusick, V.A. (1994). Mendelian Inheritance in Man. Catalogs ofHuman Genes and Genetic Disorders. (Eleventh edition). Baltimore: Johns Hopkins University Press.

49. McLaren, J., & Bryson, S.E. (1987). Review of recent epidemiological studies in mental retardation: Prevalence, associated disorders, and etiology. American Journal of Mental Retardation, 92, 243-254.

50. McNeil, D.G. (2006). In Raising the World’s I.Q., the Secret’s in the Salt. New York Times, December 16.

51. Moser, H. G. (1995) A role for gene therapy in mental retardation.Mental Retardation and Developmental Disabilities Research Reviews: Gene Therapy, 1, 4-6.

52. Patterson MC, Zoghbi HY.(2003),Mental retardation. X marks the spot. Neurology. 2003;61:156-7. 

53. Pearl PL, Novotny EJ, Acosta MT, et al.(2003),Succinic semialdehyde dehydrogenase deficiency in children and adults. Ann Neurol. 2003;54 Suppl 6:73-80.        

54. Piecuch R.E., Leonard C.H., Cooper B.A., Sehring S.A. (1997),Outcome of extremely low birth weight infants (500 to 999 grams)over a 12-year period. Pediatrics, 100:633-9.

55. Ramakers GJA.(2002),Rho proteins, mental retardation and the cellular basis of cognition. Trends Neurosci. 2002;25(4):191-9.

56. Rittey CD. Learning difficulties: what the neurologist needs to know. J Neurol Neurosurg Psychiatry. 2003;74 Suppl I:30-36.        

57. Rutter, L.Q. (2006). First Diagnosis of Severe Mental and PhysicalDisability: A Study of Doctor– Parent Communication. Journal ofChild Psychology & Psychiatry, 35(7): 1273-1287

58. Salekin K.L., Olley J.G., Hedge K.A. (2010), Offenders with Intellectual Disability: Characteristics, prevalence and issues in forensic assessment, Journal of mental health research in intellectual disability, 3:2,97-116.

59. Schaefer GB, Bodensteiner JB. (1992). Evaluation of the child withidiopathic mental retardation. Pediatr Clin North Am;39(4):929-43.

60. Schwartzman JS. Síndrome de Rett. Rev Bras Psiquiatr. 2003;25(2):110-13. 

61. Scriver, C. R. (1995). The metabolic and molecular bases ofinherited disease. (Seventh edition). New York: McGraw-Hill.

62. Seay O.J. (2006), Evaluating mental retardation for forensic purposes, Psychology in crimminal justice, 2006,2(3).

63. Stein Z, Zusser M, Saenger G, Marolla F. Nutrition and mental performance: prenatal exposure to the Dutch famine of 1944-1945 seems not related to mental performance at age 19. Science. 1972;178:708-13. 

64. Strømme, P., & Hagberg, G. (2007). Aetiology in severe andmild mental retardation: a population-based study of Norwegian children.Developmental Medicine & Child Neurology, 42(2):76-86.

65. Su KPYu JMYang TW, et al.(2000),Characteristics of mentally retarded criminal offenders in Northern Taiwan, J. Forensic Sci 2000 Nov, 45(6): 1207-9.

66. Sultana S.A.G., Lam-Po-Tang T.R.L., Wright F., et al (1995). Fragile X mental retardation in an Indonesianfamily. Medical Journal of Indonesia, 4:17-17.

67. Tassone F, Hagerman RJ, Chamberlain WD, Hagerman PJ. Transcription of the FMR1 gene in individuals with fragile X syndrome. Am J Med Genet. 2000;97:195-203.        

68. The Dutch-Belgian Fragile X Consortium. Fmr1 knockout mice: a model to study fragile X mental retardation. Cell. 1994;78:23-33

69. Vasconcelos M.M. (2004),Mental Retardation, Jornal de Pediatria - Vol. 80, No.2(Suppl), 2004

70. World health organization (1996), ICD-10 Guide for mental retardation, Division of mental health and prevention of substance abuse, Geneva.

71. Willemsen R, Oostra BA. FMRP detection assay for the diagnosis of the fragile X syndrome. Am J Med Genet. 2000;97:183-8.

72. Wines, M. (2006). Malnutrition Is Cheating Its Survivors, and Africa’s Future. New York Times, December 28.

73. Zoghbi HY. Postnatal neurodevelopmental disorders: meeting at the synapse? Science. 2003;302(5646):826-30.   

Các bài viết khác:
Lịch công tác
Giá
Khám chữa bệnh
Chi hội Tâm thần học
Văn bản chuyên ngành
Tin nội bộ
Sức khỏe đời sống
Đang tải ...
Những biểu hiện và điều trị bệnh tự kỷ ở trẻ em

Lượt truy cập: 1356100
 
Đang trực tuyến: 99