MỘT VÀI HƯỚNG NGHIÊN CỨU VỀ SINH BỆNH HỌC TÂM THẦN PHÂN LIỆT
YẾU TỐ DI TRUYỀN TRONG TTPL:
- Đầu thế kỷ (TK) 19 Esquirol coi di truyền như là nguyên nhân của chứng “điên”.
- Giữa TK 19 Morel đưa ra thuyết di truyền trong “sa sút sớm”.
- Cuối TK 19 Kraepelin tập hợp các thể lâm sàng và đưa ra mô hình sinh bệnh học di truyền trong TTPL và Loạn Tâm Thần Hưng Trầm Cảm.
- Ngày nay cũng như các bệnh lý khác , các mô hình nghiên cứu di truyền học được tập trung ở 3 hình thức : Nghiên cứu (NC) gia đình và phả hệ, NC các cặp sinh đôi và NC các trường hợp con nuôi.
1. NGHIÊN CỨU GIA ĐÌNH VÀ PHẢ HỆ
- Từ đầu TK 20 Rudin (1916) đã tập hợp các số liệu để nhằm chứng minh tính phổ biến của bệnh tập trung ở các thành viên trong gia đình bệnh nhân (bn).
- Gottesman và Shield (1982) đã tiến hành phân tích các nghiên cứu gia đình đã tiến hành trong 2 thập niên 60 và 70 với các kết quả đáng chú ý sau:
+ Tỷ lệ bệnh trong số thân nhân cấp 1 của TTPL tính chung là cao gấp 10 lần so với dân số chung, trong đó tỷ lệ anh chị em mắc bệnh là 10% con cái 12,8% cha me 5,6%. Còn nếu con có cả cha lẫn mẹ TTPL sẽ là 46%. Đáng lưu ý là tỷ lệ này có tương quan với các thể bệnh TTPL:
Thí dụ như con cái của bệnh nhân thể thanh xuân có tỷ lệ là 20,7% thể căng trương lực 21,6%,trong khi đó thể hoang tưởng là 10,4%.
+ Số thân nhân cấp 2 (cô chú bác, anh em họ, cháu..) là 2,4-3,7%, nhóm anh em họ là 4,2%.
+ Khá thú vị là trong nhóm người phối ngẫu với bệnh nhân cũng có tỷ lệ cao hơn so với dân số chung: 2,4 so với 0,9 ± 0,1% (Hiện tượng “Đồng bệnh tương liên” hay“Homogamie” hay “Assortative mating”) Tuy nhiên mô hình NC gia đình luôn gập phải một số vấn đề khó khăn về phương pháp luận sau:
- Mẫu chọn thường tập trung ở các trường hợp nhập viện.
- Các tiêu chuẩn chẩn đoán có thay đổi theo thời gian.
- Chẩn đoán “mù” theo lời khai của người được phỏng vấn.
- Lượng thông tin nhận được không phải lúc nào cũng đầy đủ.
- Nhóm chứng có lúc không tương đồng về hoàn cảnh XH, tuổi tác,..
- Tuổi của bệnh nhân lúc điều tra.
- Không loại trừ được yếu tố môi trường.
Cũng cần phải nhắc tới là các công trình NC gia đình gần đây vẫn cho thấy tỷ lệ cao có ý nghĩa trong gia đình bệnh nhân mặc dù tiêu chuẩn chẩn đoán chặt chẽ hơn.
(Tsuang 1980, Pope 1982, Guze 1983, Abrams & Taylor 1983, Kendler 1985 và 1993, Baron 1985, Frangos 1985, Coryell & Zimmerman 1988, Gershon 1988, Maier 1990)
Thí dụ như : Con cái 8,7 cha mẹ 3,3 so với 0,6% ở nhóm chứng (Baron)
Thân nhân cấp 1 là 6,5 so với 0,5% ở nhóm chứng (Kendler).
2. NGHIÊN CỨU CÁC CẶP SINH ĐÔI TTPL:
Đã được tiến hành một cách có hệ thống từ những năm 30, cho tới nay đều cho thấy tỷ lệ khác biệt rõ giữa cặp sinh đôi cùng trứng (monozygote MZ) và khác trứng (dizygote DZ):
- Luxenberger (1928) với khác biệt là 58 và 0% giữa MZ và DZ. Gottesman và Shield (1972) là 58 và 12%. Onstad(1991) có áp dụng DSM IIIR đã đưa ra con số là 33 và 4%.Torrey (1992) là 28 và 6%.
- Tuy nhiên yếu tố môi trường vẫn có vai trò trong đó vì thường các cặp sinh đôi thường có chung một môi trường giáo dục XH.
- Để đánh giá rõ hơn yếu tố di truyền Gottesman và Bertelsen (1989) đã tiến hành khảo sát những ngưới con của các cặp sinh đôi. Ở nhóm MZ TTPL có tỷ lệ là 16,8 ± 6,6% (số con N=14). Ở nhóm MZ chứng là 14,7± 7,7% ( N=24)
Đáng chú ý là ở nhóm DZ TTPL lại có tỷ lệ là 14,7± 7,7% ( N=13) còn nhóm DZ chứng là 2,1 ± 1,1% ( N= 15).
Khảo sát này cho thấy tầm quan trọng của yếu tố môi trường ngay cả khi một cơ cấu di truyền đã được xác định.
3. NGHIÊN CỨU CÁC TRƯỜNG HỢP CON NUÔI:
Được các tác giả vùng Scandinavie thực hiện khá hệ thống. Thí dụ như Kety qua các công trình trong những năm 1968, 1975 và 1994 đã cho thấy các trẻ có cha mẹ bị TTPL dù được nuôi ở gia đình bình thường cũng có tỷ lệ cao gấp 10 lần so với nhóm con nuôi chứng.
THUYẾT NHIỄM TRÙNG TRONG TTPL
Với một số các quan sát thực tiển về sự trùng hợp giữa các trận dịch bệnh và các bệnh lý tâm thần về sau đã khiến một số nhà nghiên cứu nghĩ tới bệnh lý nhiễm trùng ở thời kỳ bào thai đặc biệt là các virus cảm cúm có thể góp phần tạo nên một bất thường TK dẫn tới TTPL sau này.
1. NGHIÊN CỨU CÁC TRẬN ĐẠI DỊCH:
Trận đại dịch cúm Influenza A2 xẩy ra vào 1957 đã được ghi nhận vì có một tỷ lệ cao các bệnh nhân TTPL ở nhiều nườc khác nhau về sau này được ghi nhận rằng tam cá nguyệt thứ 2 thai kỳ của họ trùng với cao điểm của dịch cúm.
(Mednick Phần Lan 1988, O ‘Callaghan Anh-xứ Wales 1991, Kunugi Nhật 1992, Kendell và Kemp Scotland 1989, Waddington Ireland 1992, Mc Grath Uc 1992).
Năm 1993 một cuộc tổng phân tích về trận đại dịch này và trên 57.000 bn thuộc 3 nước Anh, Scotland và Đan Mạch đã được Adams tiến hành đã cho thấy có một con số đột biến cao của các bn TTPL sinh vào hơn giữa năm 1958
(Đỉnh điểm trận đại dịch là tháng 10, 11/ 1958 và một số lớn các bệnh nhân có tam cá nguyệt thứ 2 thai kỳ rơi vào giai đoạn này).
2. NGHIÊN CỨU VỀ SỰ BIẾN ĐỘNG CÁC DỊCH CÚM VÀ THỜI ĐIỂM SINH CỦA BN:
Nghiên cứu ở Đan Mạch trên 7300 bệnh nhân sinh từ 1911 đến 1950 và các đợt cúm trong 40 năm trên cho thấy có một sự tương quan có ý nghĩa giữa các tam cá nguyệt thứ 2 thai kỳ và những đợt cúm.
Hoặc một nghiên cứu khác ở Anh trên 14.900 bệnh nhân sinh từ 1939 đến 1960 (nhập viện lần đầu từ năm 1970 đến 1979) cho thấy có tương quan với các đợt tử vong cao điểm do cúm và cũng phù hợp với tam cá nguyệt thứ 2 thai kỳ.
HIỆN TƯỢNG MẤT QUÂN BÌNH TRONG THỜI ĐIỂM SINH CỦA TTPL:
Hiện tượng này đã được nhận xét từ lâu rằng các bệnh nhân TTPL thường hay sinh vào thời điểm mùa đông-đầu xuân. Các nghiên cứu về hiện tượng này đã được tiến hành từ những năm 20 với Tramer ở Thụy Sĩ (1929) và tiếp tục tới gần đây.
1. CÁC CAO ĐIỂM VỀ SINH TRONG NĂM Ở NGƯỜI BÌNH THƯỜNG:
Ở Châu Âu, các nước Bắc bán cầu có 2 cao điểm là mùa xuân và kế đến tháng 9,10, tại đây người ta cũng ghi nhận một sự sút giảm sinh về mùa thu tháng 11,12. Ở vùng Nam bán cầu thì ngược lại.
2. CÁC GHI NHẬN VỀ THỜI ĐIỂM SINH CỦA TTPL:
- Các công trình phân tích của Bradbury và Miller (1986) và Boyd (1987) trên 50 nghiên cứu về thời điểm sinh ở Bắc bán cầu đều cho thấy tỷ lệ cao các bn sinh ở thời điểm trên.
- Gần đây hơn, ở Mannheim- Đức khi tiến hành điều tra dịch tễ học trên 2020 bn TTPL có đối chứng với 2020 người cùng phái tính, năm sinh đã cho thấy một tỷ lệ là 12% bn sinh vào tháng 3,4 (Hafner 1987).
Tại Scotland cũng tỷ lệ cao vào tháng 2 tới tháng 5 (Kendell và Adams 1991).
Ở Ireland tháng1 tới tháng 3 (O’Callaghan 1991) Ở Hòa Lan là từ tháng 12 đến tháng 2 (Pallast 1994).
Tại Pháp một nghiên cứu đa trung tâm trên 3944 bn cũng cho thấy một đột biến cao vào 3 tháng đầu năm (Bourgeois 1990) hoặc thú vị hơn là công trình về các loại bệnh tâm thần được tiến hành bởi D’Amato (1991) trên 2215 bn tâm thần các loại đã ghi nhận rằng nếu không có sự khác biệt về thời điểm sinh so với dân số chung đối với các bệnh như RL lo âu, RL khí sắc.. thì ở TTPL lại nổi trội rõ về mùa đông so với dân số chung.
- Một số tác giả tiếp tục khảo sát về sự tương quan giữa thời điểm và các dạng lâm sàng của bệnh cho thấy nếu sinh về mùa đông thì bn nhiều khả năng có triệu chứng âmtính và vô tổ chức hơn. (Opler 1984, Ohlund 1990, Franzek và Beckman 1992, D’Amato 1991 và 1994).
-Một cách tổng quát qua các ghi nhận trên tại Bắc bán cầu có thể ước lượng rằng tỷ lệ bệnh nhân sinh vào các tháng mùa đông sẽ cao hơn 10-15% so với tỷ lệ bệnh nhân trong dân số chung.
3. GIẢ THUYẾT:
+Thuyết liên quan tới rụng trứng ở mẹ:
Dựa trên 3 luận điểm sau:
- Sự rụng trứng liên quan tới mức độ ánh sáng thay đổi trong năm thay đổi Mélatonine huyết tương kháng Gonadotropine.
- Sự biến động Hormone trên chậm trễ rụng trứng trứng ”già” đi.
- Trứng này khi được thụ tinh có thể dẫn tới các bất thường NST hoặc gène.
Giả thuyết này sau khi được Jongbloet (1971 và 1975)đưa ra, đã được quan sát trên thực nghiệm súc vật (Butcher 1981, Jonbloet 1990) Dựa vào đó một số tác giả đã tìm mối tương quan giữa thời kỳ sinh của các bn TTPL với những bà mẹ lớn tuổi >34 tuổi và với các cao điểm trong năm các trẻ chết khi sinh (Dalén 1988).
+Thuyết liên quan giai đoạn bào thai
~Yếu tố dinh dưỡng:
- Sản phụ gầy yếu có liên quan tới nguy cơ TTPL sau này (Done1991, Susser& Lin1992)
- Một thí dụ khác được ghi nhận ở Hòa Lan ở các vùng bị phong tỏa vào mùa đông 1944 - 1945 nơi các sản phụ thiếu đói vào 3 tháng đầu thai kỳ, sau này đã ghi nhận được một tỷ lệ TTPL cao gấp 2 lần bình thường so với các vùng khác không bị phong tỏa.
~ Yếu tố miễn nhiễm:
Hare và Price(1968) đã đưa ra giả thuyết về sự tăng cường miễn dịch nơi các thai phụ có thể làm tăng nguy cơ TTPL sau này nơi trẻ(?). Sau đó Carter và Watts (1971) đã ghi nhận rằng các thân nhân của bn có đề kháng cao với nhiễm siêu vi hơn so với dân số chung.
SANG CHẤN SẢN KHOA VÀ TTPL
- Năm 1934 Rosanoff đưa ra giả thuyết về sự liên quan giữa sang chấn khi sinh và tỷ lệ TTPL
- Stanebeau và Pollin (1967) khi so sánh 100 cặp sinh đôi mà một bị TTPL nhận thấy trên các bn này có cân nặng lúc sanh thấp và chịu những sang chấn sản khoa cao hơn hẳn người anh chị em sinh đôi.
- Woener (1973), De Lisi (1987), O’Callaghan (1990) khi so sánh các bn với các anh chị em trong gia đình cũng thấy tỷ lệ cao: 23,6 - 33%.
- Parnas (1982), Verdoux & Bourgeois (1993), tìm thấy 67% có sang chấn sản khoa hoặc 47,4% co sang chấn lúc mang thai so với 17,4% các bn lưỡng cực và không bệnh tâm thần hoặc 69,5% sang chấn lúc sinh so với 34,8% các bn lưỡng cực và không bệnh tâm thần.
- Tuy nhiên các nghiên cứu về sang chấn sản khoa luôn vấp phải một số vấn đề về phương pháp luận sau:
+ Khoảng cách thời gian từ sang chấn đến khi phát bệnh
+ Tính đồng nhất với nhóm đối chứng.
+ Sự thiếu thống nhất trong tiêu chuẩn sang chấn sản khoa.
- Một số tác giả đã tìm cách tham khảo các hồ sơ sản khoa lưu rồi đối chiếu với các bn tìm trong các Bv tâm thần như Done(1991)với hồ sơ lưu của 16.980 trẻ sinh trong 1 tuần của năm 1958 kế đó đã tìm được 235 bn TTPL cũng sinh trong tuần lễ đó thì lại không tìm được mối tương quan nào với sang chấn. Hoặc như Buka(1993) với 1.068 hồ sơ sản khoa được theo dõi tới năm 18 –27 tuổi (tái khám 75%) cũng chưa xác định mối tương quan trên.
-Tóm lại có thể tạm thời kết luận như Goodman (1988) rằng chỉ có một mối liên hệ rất nhỏ giữa sang chấn sản khoa và TTPL, hoặc là chỉ có những bn có sang chấn nặng kèm theo tiền sử gia đình mới có nguy cơ cao với TTPL.
THUYẾT RỐI LOẠN CHẤT DẪN TRUYỀN TK (THUYẾT DOPAMIME)
Học thuyết đứng vững với thời gian nhất và được điều chỉnh nhiều lần theo bước phát triển của ngành Dược lý tâm thần.
- 1952 Laborit trong khi tìm kiếm một dược chất kháng Histamine ít êm dịu hơn Prométhazine đã tìm ra được Chlorpromazine sau đó đã được Delay phát hiện qua lâm sàng đặc tính chống loạn thần.
- Tuy nhiên phải 10 năm sau Carlsson và Lindqvist (1963) mới chứng minh qua mô hình súc vật sự giảm chuyển hóa Dopamine não sau khi tiêm Chlorpromazine, Carlsson lúc đó cho rằng thuốc đã phong bế thụ thể Dopamine. Trước đó, Connell (1958) đã gây được mô hình loạn thần gần giống TTPL khi tiêm một chất giải phóng Dopamine đó là Amphétamine.
- Vấn đề tưởng chừng như đã được giải quyết khi Seeman (1976) công bố hiệu quả lâm sàng liên quan chặt chẽ với sự gắn kết chuyên biệt lên thụ thể D2 của hệ Dopamine và do vậy TTPL là hậu quả của sự gia tăng dẫn truyền Dopamine.
- Tuy nhiên sau đó người ta lại nhận thấy không hề có một sự gia tăng chuyển hóa Dopamine trên các bn TTPL (Berger 1980, Van Kammen 1986) hoặc cũng không hề ghi nhận được sự giảm sút mà ngược lại gia tăng các thụ thể D2 ở vùng dưới vỏ của bn, từ đó có thể nghĩ rằng sự gia tăng độ nhậy cảm của thụ thể Dopamine lại là kết quả của việc giảm thiểu dẫn truyền.
- Mặt khác qua thực nghiệm người ta cũng thấy các thụ thể ngay sau tiêm thuốc chống loạn thần vài chục phút đã bị phong bế nhưng tác dụng chống loạn thần phải đợi một vài tuần mới đạt được.
- Và từ những năm 90 nhiều phát hiện thêm các thụ thể khác như D3, D4, D5 đã được công bố.
- Ngày nay người ta biết rằng từ trung não (chất đen, vùng trần trung não) nhiều con đường Dopamine đã phóng chiếu qua một loạt các vùng vỏ não và dưới vỏ khác nhau như:trung não-viền, trung não-vỏ não, ụ-phễu, chất đen-thể vân.. (Hervé & Tassin 1986, Simon & Le Moal 1991).
Như vậy quan niệm về rối loạn hệ Dopamine không đơn thuần là sự sút giảm hoặc gia tăng dẫn truyền Dopamine mà đúng hơn là một sự thay đổi sự thăng bằng chức năng các đường Dopamine trong não
THUYẾT KHIẾM KHUYẾT SỰ PHÁT TRIỂN TK
Đặt cơ sở trên :
+ Sự khiếm khuyết phát triển vỏ não ở tam cá nguyệt thứ 2 trong thai kỳ.
+ Từ đó dẫn tới các rối loạn về nhận thức và tâm lý xã hội ở giai đoạn thanh thiếu niên.
1. Lịch sử:
- 1919 Kraepelin sau khi tổng hợp các thể lâm sàng của bệnh đã đưa ra giả thuyết về sự thoái hóa TK.
- Rosannof 1934 coi đó là hậu quả của sang chấn sản khoa.
- Mednick 1988 đế xuất ý tưởng về sự lây nhiễm virus nhóm Influenza trong giai đoạn thai kỳ.
- Prescott 1993 đã nói về sự tương tác giữa yếu tố di truyền và môi trường.
- 1994 Weinberger và Lipska cũng như trước đó là Bloom (1993) với các nghiên cứu di truyền ở mức độ phân tử, chẩn đoán hình ảnh học và các yếu tố tác động môi trường đã góp phần hình thành học thuyết về sự khiếm khuyết TK.
2. Các biến đổi cấu trúc vỏ não trong TTPL:
a. Các nghiên cứu trên bệnh nhân:
- 1976 Johnstone đã lần đầu tiên thăm dò bệnh nhân TTPL bằng Scanner.
- 1982 Nyback, Weinberger rồi Shelton (1986) qua Scanner và IRM đã cho thấy có hiện tượng giãn nở não thất ngay cả các bệnh nhân ở giai đoạn khởi đầu cũng như những bệnh nhân chưa được điều trị.
- Sau đó các nghiên cứu được tiến hành trong những năm 90 như củaWeinberger (1979 và 1992) Suddath, Bogerts, Barta (1990) Shenton, Zypursky(1992) trên hiện tượng giảm thể tích các vùng của vỏ não cũng như hồi hải mã và hồi thái dương trên. Cho tới nay tuy chưa có sự khẳng định trực tiếp về tính bẩm sinh của các bất thường trên , tuy nhiên một số bằng chứng gián tiếp đã cho phép nghĩ tới yếu tố này:
+ Trên người anh (chị) em sinh đôi cùng trứng của bệnh nhân TTPL cũng có tỷ lệ cao sự giãn nở não thất (Reveley 1982, Suddath 1990).
+ Hiện tượng này không tương quan với thời gian bệnh và cũng không tiến triển theo thời gian (Weinberger 1979, Raz 1990, Hyde 1991).
+ Hơn nữa chúng lại có tương quan với những khiếm khuyết nhận thức tiền bệnh lý (Weinberger 1980, Kolakowska 1985).
b. Nghiên cứu tử thi học:
Các nghiên cứu tử thi học trên bênh nhân TTPL đã hỗ trợ cho thuyết khiếm khuyết sớm :
+ Có sự rối loạn cấu trúc các lớp vỏ não, sự giảm thể tích vỏ não thùy trán và trung não-thái dương (Sheibel 1981, Bogerts 1985, Benes 1986, Pakkenberg 1990..), bất thường ở hồi hải mã (Kovelman và Sheibel 1984)
+ Và đặc biệt là sự khiếm khuyết tế bào TK đệm (gliose) ( Kovelman và Sheibel 1984, Benes 1986, Falkai 1988) càng củng cố cho luận chứng về một bất thường sớm và hằng định.
Những khảo sát trên đã giúp Rakic vào năm 1988 đề xuất thuyết “đơn vị phát triển xuyên tâm” (l’unité radiale), theo đó sau khi được tượng hình ở tam cá nguyệt thứ 1, các tế bào TK vùng quanh não thất sẽ phát triển theo hường quy hoạch về phía vỏ não tạo thành các cột vỏ não rồi sau đó được biệt hóa theo từng vùng riêng.
Tiếp đó Cannon (1991) nhận xét rằng các bất thường khi tế bào TK phát triển định hướng (chủ yếu ở mức cấu trúc tế bào) sẽ dẫn tới sự khiếm khuyết phát triển.
3. Bất thưòng ở vỏ não và sự khiếm khuyết nhận thức ở TTPL
- Do sự rối loạn chức năng của vùng trán về khả năng thi hành và tập trung vùng trán - thái dương về sự ghi nhớ .
- Nhiều tác giả đã ghi nhận được một sự sút giảm chức năng nhận thức như thương số thông minh (IQ) giảm đi khoảng 10 điểm so với lúc bắt đầu rối loạn, tuy nhiên sự sa sút này lại chựng lại, hằng định theo thời gian. (Randoph 1993, Gold và Harvey 1993).
- Tuy nhiên ở bệnh nhân TTPL rối loạn nhận thức nặng nề nhất chính là khả năng tập trung,từ đó gây rối loạn trí nhớ lập tức và trí nhớ gần cũng như khả năng phản ứng (Davidson 1974, Oltmanns 1975, Frame 1982, Kolb 1983).
4. Bất thường huyết động học ở vỏ não trong TTPL:
Trái với một số bệnh lý thoái hóa như mạch máu não hay Alzheimer với sự giảm tưới máu não (rCBF), ở TTPL hiện tượng này chỉ thoáng xẩy ra ở thuỳ trán khi khu vực này được kích hoạt khi có hoạt động nhận thức. Một số tác giả đã đánh giá các rối loạn nàykhi cho bệnh nhân thực hiện trắc nghiệm nhận thức Wiscosin (WCST) đồng thời đo rCBF bằng hình ảnh học (PET, MRI), đo mức độ chuyển hóa Glucose có so sánh với nhóm chứng (Weinberger và Berman 1988, Belliveau 1991, Zigun 1993).
Sự giảm sinh lý vùng trán này (hypofrontalité ) thật ra không phải do thiếu máu nuôi mà do giảm hoạt năng các vòng kết nối TK (circuit neuronal), rối loạn sự nối kết vỏ não (dysconnexion intracorticale) khi não đang được huy động để thích ứng với những tình huống bên ngoài.
5. Chất dẫn truyền TK và thuyết khiếm khuyết sớm:
Như chúng ta đã biết sự rối loạn điều hòa hệ Dopamine không thể giải thích các cơ chế rối loạn trong TTPL :
+ Các dữ liệu giải phẫu TK về các tổn thương sớm ở vỏ não trán,trung não-tháidương.
+ Các khiếm khuyết nhận thức có đáp ứng kém với thuốc chống loạn thần (Goldberg 91).
+ Sự hồi phục lâm sàng xẩy ra chậm kể cả sau khi các thụ thể Dopamine đã bị chẹn hoàn toàn.
Thuyết khiếm khuyết sớm xem sự rối loạn điều hòa Dopamine như là thứ phát trên nền các bất thường sớm ở vỏ não (Jaskiw và Weinberger 1992).
Hơn nữa trên mô hình súc vật, 2 tác giả trên đã thực hiện được mô hình rối loạn thứ phát xuất hiện muộn sau khi có tổn thương sớm:
Họ gây các tổn thương ở phần bụng của hồi hải mã ở chuột sơ sinh (về mặt phát triển TK tương đương với giai đoạn biệt hóa ở tam cá nguyệt thứ 2 thai kỳ nơi người ). Ở những con chuột này các rối loạn hành vi gây nên bởi Dopamine (hoạt động, đáp ứng với stress..) chỉ được biểu hiện ở giai đoạn trưởng thành về sinh dục.
6. Các yếu tố môi trường và thuyết khiếm khuyết sớm:
Các bất thường sớm ở vỏ não (rối loạn sự nối kết vỏ não) sẽ bộc lộ rõ theo tuổi, theo các đòi hỏi văn hóa xã hội, sự tự lập..Nói chung vỏ não ngày càng phải thích ứng cao theo sự đòi hỏi từ bên ngoài, như vậy giai đoạn khó khăn nhất sẽ đạt cao điểm ở lứa tuổi sắp trưởng thành và trưởng thành.
TOÁT YẾU THUYẾT KHIẾM KHUYẾT SỚM:
a. Các bất thường phát triển TK xuất hiện sớm, ở tam cá nguyệt thứ 2 thai kỳ.
b. Các tế bào TK quanh não thất sẽ không phát triển đúng định hướng về phía vỏ não gây nên về sau sự rối loạn kết nối vỏ não.
c. Các biến đổi giải phẫu như giãn nở não thất, giảm thể tích vỏ não xuất hiện sớm và không tùy thuộc vào thời gian, diễn tiến bệnh.
d. Sự sa sút chức năng nhận thức thể hiện rõ ở sự kém tập trung chú ý.
e. Sự thiểu năng vùng trán không do thiếu máu nuôi nhưng do sự kém hoạt năng kết nối vỏ não bộc lộ rõ trước các tình huống cần phát huy khả năng nhận thức.
f. Sự rối loạn điều hòa Dopamine là thứ phát trên nền các bất thường sớm ở vỏ não và sự rối loạn này có khuynh hướng bộc lộ muộn.
g. Các yếu tố môi trường như sự đòi hỏi thích ứng XH, sự tự lập.. sẽ làm bộc lộ rõ các khiếm khuyết này.
KẾT LUẬN:
Ít có một bệnh lý nào lại có nhiều giả thuyết bệnh sinh như TTPL.Trong thời điểm hiện tại,với sự phát triển của các ngành như di truyền học, hình ảnh học,sinh học TK, dược lý học tâm thần.. thì bệnh sinh học của TTPL ngày càng nghiêng về phía sinh học hơn, các tác nhân tâm lý XH dường như đóng vai trò trong cơ chế tái phát. Thuyết khiếm khuyết phát triển TK (Déficit neurodéveloppemental) được đề xuất trên dữ liệu khoa học và trên cơ sở một số thuyết khác là một giả thuyết rất đáng được quan tâm. Dù sao đi nữa ý tưởng về một thực thể đa nguyên (notion multifactorielle)trong bệnh sinh của TTPL luôn gập sự đồng tình của mọi nhà tâm thần học.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Bourin M: Neurologie et psychiatrie-Masson 1999.
2. Costentin J: Les médicaments du cerveau-Odile Jacob 1993.
3. Dalery J & d’Amato T : La schizophrénie,recherches actuelles et perspectives-Masson 1999.
4. Đào Trần Thái : Hội thảo về đối vận Séro tonin-Dopamin 1999.
5. Kaplan & Sadock : Synopsis of Psychiatry- Williams & Wilkins 1998.
BS TRẦN DUY TÂM
(Nguồn: http://www.bvtt-tphcm.org.vn)
- Cập nhật điều trị trầm cảm lo âu ở bệnh nhân tâm thần phân liệt
- Tiếp cận chẩn đoán và điều trị động kinh cục bộ
- Say rượu bệnh lý
- Chẩn đoán và điều trị mất trí
- RỐI LOẠN TỰ KỶ
- SINH LÝ BỆNH TRẦM CẢM VÀ CƠ CHẾ ĐIỀU TRỊ
- RỐI LOẠN CHỨC NĂNG HOẠT ĐỘNG TÌNH DỤC Ở BỆNH NHÂN TRẦM CẢM: một thực trạng chưa được quan tâm
- RỐI LOẠN TÂM THẦN DO CHẤN THƯƠNG SỌ NÃO
- Hướng tới Ngày Sức khỏe thế giới 7/4: TĂNG CƯỜNG XÃ HỘI HÓA CÔNG TÁC BẢO VỆ SỨC KHỎE TÂM THẦN CỘNG ĐỒNG
- Chủ đề Ngày Sức khoẻ Tâm thần thế giới 10 tháng 10 năm 2017: SỨC KHOẺ TÂM THẦN TẠI NƠI LÀM VIỆC