hotline Đường Dây Nóng:  0234 588 827
Bộ y tế
Bộ tư pháp
Cổng thông tin điện tử
Viện giám định
BV Tâm thần
Bênh viện Trung Ương
Sở tư pháp
Sở Y Tế
Bệnh viện tâm thần
Trường Đại học Y Dược Huế
Thông tin Y học Việt Nam
 

Thang đánh giá tâm thần ngắn

Thang đánh gia tâm thần ngắn (Brief Psychiatric Rating Scale), được xuất bản lần đầu vào năm 1962, là thang đánh giá dùng cho bác sĩ tâm thần hoặc nhà nghiên cứu có thể sử dụng để đo lường các triệu chứng rối loạn tâm thần. Thang gồm 24 triệu chứng, mỗi triệu chứng được đánh giá từ 1- 7 điểm.

 THANG ĐÁNH GIÁ TÂM THN NGẮN

Brief Psychiatric Rating Scale (BPRS)
Phiên bn m rng (4.0)

                                                                               ThS.BS. Tôn Thất Hưng
                                     Trung tâm Pháp y tâm thần khu vực Miền Trung

Giới thiệu

Phần này bao gồm lịch trình phỏng vấn, xác định  triệu chứng và  những điểm đặc hiệu để đánh giá các triệu chứng trên BPRS.

Quy mô mục và các điểm số

Đánh giá các mục từ 1 đến 14 trên cơ sở  bệnh  nhân tự báo cáo. Cần nhớ rằng, mục 7, 12 và 13 được đánh giá trên cơ sở quan sát hành vi. Các mục từ 15 đến 24 được đánh giá trên cơ sở quan sát hành vi và lời nói.

1. Lo lắng về cơ thể

Đánh giá mức độ quan tâm về sức khỏe cơ thể hiện tại dù bệnh nhân phàn nàn có căn cứ thực tế hoặc không.

Hoang tưởng về cơ thể nên được đánh giá mức độ có hoặc không có lo lắng về cơ thể. Lưu ý: đánh giá mức độ suy giảm hoạt động do những mối quan tâm chỉ về cơ thể mà không có các triệu chứng khác, ví dụ: trầm cảm. Ngoài ra, nếu bệnh nhân có điểm 6 hoặc 7 do hoang tưởng về cơ thể, bạn phải đánh giá thêm mục nội dung tư duy kỳ lạ (mục 11) ít nhất là điểm 4 hoặc cao hơn.

1.1.Câu hỏi 

  • Bạn đã từng quan tâm về sức khỏe thể chất của bạn?
  • Bạn có bệnh tật nào về cơ thể hoặc khám bác sĩ gần đây? (Bác sĩ của bạn nói bạn có bệnh gì, nghiêm trọng như thế nào?)
  • Có điều gì thay đổi về ngoại hình của bạn? Nó cản trở khả năng thực hiện các hoạt động bình thường và/hoặc làm việc của bạn ?
  • Bạn đã bao giờ cảm thấy rằng các bộ phận cơ thể bạn đã thay đổi hoặc ngừng làm việc?

[Nếu bệnh nhân báo cáo bất kỳ mối quan tâm/ hoang tưởng cơ thể nào, hãy hỏi  thêm những câu  sau đây]:

  • Bạn quan tâm về…bao lâu?
  • Bạn có bày tỏ những mối quan tâm cho những người khác không?

1.2.Điểm

2. Rất nhẹ: Mối quan tâm cơ thể không thường xuyên, bệnh nhân có xu hướng  tự giữ kín.

3. Nhẹ: Lo ngại cơ thể không thường xuyên, có xu hướng bày tỏ cho những người khác (ví dụ: gia đình,bác sĩ ...).

4. Trung bình: Biểu hiện thường xuyên mối quan tâm cơ thể hoặc cường điệu những căn bệnh hiện tại hoặc có một số mối bận tâm, nhưng không suy giảm chức năng. Không có hoang tưởng.

5. Tương đối nặng: Thường xuyên biểu hiện mối quan tâm về cơ thể hoặc cường điệu  bệnh hiện tại hoặc một số mối bận tâm và gây tổn hại trung bình đến các hoạt động. Không hoang tưởng.

6. Nặng: Mối bận tâm và các than phiền về  cơ thể với sự suy giảm nhiều trong hoạt động hoặc hoang tưởng về cơ thể mà không ảnh hưởng đến người khác  hoặc  bộc lộ cho người khác.

7. Rất nặng: Mối bận tâm về than phiền  cơ thể  với sự suy giảm nghiêm trọng trong hoạt động hoặc hoang tưởng cơ thể  có xu hướng bị tác động hoặc bị phơi bày bởi người khác.

2. Lo âu
Lo âu, căng thẳng, sợ hãi, hoảng sợ. Đánh giá lo âu, căng thẳng từ  báo cáo của bệnh nhân.

2.1.Câu hỏi

  • Bạn đã từng lo âu rất nhiều trong thời gian…Bạn đã rất lo âu, sợ hãi? (Điều gì làm bạn lo âu ?)
  • Bạn có quan tâm về điều gì, như thế nào, về tài chính hoặc tương lai?
  • Khi bạn đang cảm thấy lo âu, có làm ra mồ hôi lòng bàn tay hoặc nhịp tim nhanh không (hoặc khó thở, run rẩy, nghẹt thở)?

[Nếu bệnh nhân báo cáo có lo âu hoặc rối loạn thần kinh tự trị đi kèm, hỏi thêm các câu sau đây]:

  • Bạn lo âu đã lâu chưa?
  • Nó cản trở khả năng thực hiện các hoạt động bình thường của bạn không?

2.2. Điểm

2. Rất nhẹ: Báo cáo một số khó chịu do lo âu hoặc lo âu không thường xuyên xảy ra nhiều hơn bình thường.

3. Nhẹ: Lo âu thường xuyên, nhưng có thể dễ dàng chuyển sự chú ý đến những việc khác.

4. Trung bình: Lo âu nặng, thường xuyên hầu hết thời gian và không thể chuyển sự chú ý đến những việc khác một cách dễ dàng, nhưng không suy giảm hoạt động, hoặc lo âu thỉnh thoảng kèm theo rối loạn thần kinh tự trị nhưng không suy giảm hoạt động.

5. Tương đối nặng: Thường xuyên, nhưng không phải hàng ngày, từng thời kỳ lo âu với rối loạn thần kinh tự trị đi kèm hoặc một số lĩnh vực hoạt động bị gián đoạn bởi lo âu.

6. Nặng: Lo âu kèm theo  rối loạn tự trị hàng ngày nhưng không tồn tại  trong suốt ngày,  hoặc nhiều hoạt động bị gián đoạn bởi lo âu, nỗi lo thường trực.

7. Rất nặng: Lo âu nặng kèm theo rối loạn thần kinh tự trị trong suốt ngày hoặc hầu hết các lĩnh vực hoạt động bị gián đoạn bởi lo âu hoặc lo âu liên tục.

3. Trầm cảm

Bao gồm buồn bã, bất hạnh, mất hứng thú và mối bận tâm với các chủ đề thất vọng (không thể chú tâm xem tivi hoặc cuộc hội thoại do trầm cảm), vô vọng, mất lòng tự trọng (không hài lòng hoặc ghê tởm với bản thân hoặc cảm giác vô dụng).  

Không bao gồm các triệu chứng thực vật, vận động chậm chạp,  thức dậy sớm hoặc không có sự thúc đẩy đi kèm với hội chứng thiếu sót.

3.1.Câu hỏi

  • Tâm trạng của bạn gần đây thế nào? Bạn cảm thấy trầm cảm (buồn, không vui, như thể bạn không quan tâm thích thú)?
  • Bạn có thể chuyển sự chú ý của bạn sang chủ đề dễ chịu hơn khi bạn muốn?
  • Bạn có thấy rằng bạn còn quan tâm đến hoặc nhận được niềm vui từ những điều bạn thường thích, như gia đình, bạn bè, sở thích, xem tivi, ăn uống?  
  • [Nếu bệnh nhân báo cáo trầm cảm, hỏi tiếp những câu sau đây]:
  • Bao lâu thì những cảm xúc đó qua đi?
  • Nó cản trở  bạn thực hiện những hoạt động thông thường không?

3.2. Điểm

2. Rất nhẹ: Đôi khi cảm thấy buồn, không vui hoặc chán.

3. Nhẹ: Thường cảm thấy buồn hoặc không vui, nhưng có thể dễ dàng chuyển sự chú ý đến những việc khác.

4. Trung bình: Thời kỳ thường xuyên cảm thấy rất buồn, không vui, chán nản vừa, nhưng có thể hoạt động với nhiều cố gắng.

5. Tương đối nặng: Thường xuyên, nhưng không phải hàng ngày, giai đoạn trầm cảm sâu hoặc một số lĩnh vực của hoạt động bị gián đoạn bởi trầm cảm.

6. Nặng: Trầm cảm sâu sắc hàng ngày, nhưng không tồn tại trong suốt cả ngày hoặc nhiều chức năng bị gián đoạn bởi trầm cảm.

7. Rất nặng: Chán nản sâu sắc, xảy ra hàng ngày hoặc hầu hết các chức năng bị gián đoạn bởi trầm cảm.

4. Tự sát
   Bày tỏ mong muốn, ý định, hoặc hành động tự làm hại hoặc tự sát.

4.1.Câu hỏi

  • Bạn có cảm thấy rằng cuộc sống không đáng sống?
  • Bạn đã nghĩ về việc tự làm hại mình hoặc tự sát?
  • Bạn có cảm thấy chán nản cuộc sống hoặc tốt hơn là chết?
  • Bạn đã bao giờ cảm thấy thích kết thúc tất cả?

   [Nếu bệnh nhân báo cáo có ý tưởng tự sát, cần hỏi thêm các  câu sau đây]:

  • Bạn có thường xuyên nghĩ về…?
  • Bạn có một kế hoạch cụ thể?

4.2. Điểm

2. Rất nhẹ: Đôi khi cảm thấy chán sống. Không có ý tưởng tự sát công khai.

3. Nhẹ: Đôi khi có ý tưởng tự sát mà không có ý định hoặc kế hoạch cụ thể, hoặc  cảm thấy chết là tốt hơn.

4. Trung bình: Ý tưởng tự sát thường xuyên mà không có ý định hoặc kế hoạch.

5. Tương đối nặng: Nhiều tưởng tượng về tự sát bằng các phương pháp khác nhau, có thời gian và kế hoạch cụ thể, hoặc thử tự sát mang tính chất cưỡng bức bằng sử dụng phương pháp không gây chết người hoặc hoàn toàn có thể trông thấy người cứu tinh tiềm năng.

6. Nặng: Rõ ràng muốn tự sát. Tìm kiếm phương tiện và thời gian thích hợp, hoặc tự sát  với kiến ​​thức cứu hộ có thể.

7. Rất nặng: Kế hoạch và ý định tự sát cụ thể (ví dụ, " ngay khi …tôi sẽ làm điều đó bằng cách làm X "), đặc trưng bởi suy nghĩ kế hoạch gây chết người hoặc tự sát trong môi trường tách biệt.

5. Cảm giác tội lỗi

Quan tâm hoặc hối hận về hành vi trong quá khứ. Đánh giá chỉ dựa vào báo cáo của bệnh nhân, không suy ra cảm giác tội lỗi từ lo âu, trầm cảm, hoặc loạn thần kinh chức năng.

Lưu ý: Nếu bệnh nhân được đánh giá 6 hoặc 7 điểm do hoang tưởng bị tội, bạn phải đánh giá thêm mục nội dung tư duy kỳ lạ (mục 11) ít nhất  4 điểm hoặc cao hơn, tùy thuộc vào mức độ của mối bận tâm và sự suy giảm chức năng.

5.1. Câu hỏi

  • Có điều gì bạn cảm thấy tội lỗi? Bạn đã từng suy nghĩ về các vấn đề này trong quá khứ?
  • Bạn có xu hướng đổ lỗi cho bản thân, cho những thứ đã xảy ra?
  • Các bạn đã thực hiện bất cứ điều gì bạn vẫn còn xấu hổ?

[Nếu bệnh nhân báo cáo có tội lỗi, ăn năn, hoang tưởng, hỏi thêm những câu sau đây]:

  • Bạn  suy nghĩ thường xuyên như thế nào về…?
  • Bạn đã tiết lộ cảm giác tội lỗi của bạn cho người khác?

5.2. Điểm

2. Rất nhẹ: Lo ngại về việc làm hại một người nào đó, hoặc một điều gì đó, nhưng không bận tâm. Có thể thay đổi suy nghĩ sang các vấn đề khác một cách dễ dàng.

3. Nhẹ: Lo ngại về việc làm hại một người nào đó với một số mối bận tâm. Có xu hướng nói lên cảm giác tội lỗi cho người khác.

4. Trung bình: Mối bận tâm không cân xứng với tội lỗi, do cho rằng mình đã làm sai, làm những người khác bị tổn thương bằng cách làm hoặc không làm điều gì đó, nhưng có thể dễ dàng chuyển sự chú ý đến những việc khác.

5. Tương đối nặng: Lo lắng về cảm giác tội lỗi, có thể chuyển sự chú ý đến những việc khác, nhưng chỉ với nỗ lực rất lớn. Không hoang tưởng.

6. Nặng: Hoang tưởng  tội lỗi hoặc sự tự sỉ nhục quá đáng không tương xứng với tình huống.Mối bận tâm vừa phải.

7. Rất nặng: Hoang tưởng tội lỗi hoặc sự tự sỉ nhục quá đáng, không tương xứng với tình huống. Bệnh nhân rất bận tâm với cảm giác tội lỗi và có khả năng tiết lộ cho người khác hoặc hành động theo hoang tưởng.

6. Thù địch

Sự thù địch, khinh bỉ, hiếu chiến, đe dọa, tranh luận, cơn giận dữ, phá hủy tài sản, đánh nhau, và bất kỳ biểu hiện nào khác của thái độ hoặc hành động thù địch. Đừng suy  ra sự thù địch từ việc bảo vệ do cơ chế thần kinh, lo âu hoặc than phiền về cơ thể. Không bao gồm các sự việc xảy ra do tức giận phù hợp với tình huống hoặc tự vệ hiển nhiên.

6.1. Câu hỏi

  • Làm thế nào sống hòa thuận cùng với mọi người (gia đình, đồng nghiệp, vv)?
  • Bạn đã có kích thích hoặc gắt gỏng gần đây? (Làm thế nào để hiển thị nó? ).
  • Bạn có bao giờ bị kích thích đến nỗi bạn sẽ quát tháo, tấn công hay tranh luận với mọi người?
  • (Bạn đã thấy chính mình la hét vào những người mà bạn không biết?)
  • Bạn có đánh bất cứ ai gần đây?

6.2. Điểm

2. Rất nhẹ: Kích thích hoặc gắt gỏng, nhưng không công khai bày tỏ.

3. Nhẹ: Tranh cãi hoặc châm biếm.

4. Trung bình: Công khai tức giận mức trung bình nhiều lần hoặc hét vào mặt những người khác một cách quá mức.

5. Tương đối nặng: Đe dọa, phê bình gay gắt, hoặc ném đồ vật.

6. Nặng: Tấn công những người khác nhưng có khả năng không gây hại, ví dụ: tát hoặc đẩy, phá hủy tài sản, gõ trên đồ nội thất, đập cửa sổ...

7. Rất nặng: Tấn công người khác với khả năng  làm tổn hại đến họ, ví dụ: tấn công với búa hoặc vũ khí.

* Đánh giá mục 7 sau đây cần quan sát hành vi:

7. Khí sắc hưng phấn:

Lan tỏa, bền vững và phóng đại cảm giác hạnh phúc, vui tươi, sảng khoái,(ngụ ý một khí sắc bệnh lý), lạc quan không tương xứng với tình huống.

Đừng suy ra sự hứng khởi từ thành tích hoành tráng thật sự.

7.1.Câu hỏi

  •  Bạn cảm thấy tốt đến nỗi người khác nghĩ rằng bạn không bình thường?
  •  Bạn đã từng cảm thấy vui vẻ và lên tận đỉnh của thế giới mà không vì bất cứ lý do gì?

   [Nếu bệnh nhân tăng khí sắc, khoái cảm, hỏi  thêm câu sau đây]:

  • Điều đó kéo dài bao lâu rồi?

7.2. Điểm

2. Rất nhẹ: Có vẻ rất hạnh phúc, vui vẻ mà không có lý do.

3. Nhẹ: Một số cảm giác hạnh phúc không thể giải thích được.

4. Trung bình: Cảm giác quá mức hoặc không thực tế về hạnh phúc, vui tươi, tự tin, lạc quan không phù hợp với hoàn cảnh, thời gian. Có thể thường xuyên đùa, cười, ham chơi, quá nhiệt tình, hoặc trong vài trường hợp, tăng khí sắc đáng kể với khoái cảm.

5. Tương đối nặng: Cảm giác quá mức hoặc không thực tế về hạnh phúc, vui tươi, tự tin, lạc quan không phù hợp với hoàn cảnh, thời gian. Có thể mô tả cảm giác “trên đầu của thế giới, giống như tất cả mọi thứ đang rơi vào vị trí hay, tốt hơn bao giờ hết " hoặc trong một số trường hợp, khí sắc tăng lên rõ rệt với trạng thái khoái cảm.

6. Nặng:  Nhiều trường hợp khí sắc tăng lên đáng kể với khoái cảm hoặc tăng lên gần như liên tục trong suốt cuộc phỏng vấn nhưng không phù hợp với nội dung.

7. Rất nặng: Bệnh nhân phấn khởi, xuất hiện gần như say rượu, cười, nói đùa, liên tục khoái cảm, cảm giác bất khả xâm phạm, tất cả đều không phù hợp với  hoàn cảnh.

8. Tự cao:

Tự phóng đại, tự nâng cao niềm tin của các khả năng đặc biệt, có quyền lực hoặc tự nhận là người giàu có, nổi tiếng. Đánh giá chỉ dựa trên báo cáo của bệnh nhân, không dựa trên hành vi. Lưu ý: nếu điểm  6 hoặc 7 là do hoang tưởng khuếch đại, cho thêm  ít nhất  4 điểm hoặc cao hơn  vào mục  nội dung tư duy  kỳ lạ (mục 11).

8.1. Câu hỏi

  • Có điều gì đặc biệt về bạn? Bạn có khả năng sức mạnh đặc biệt?
  • Bạn có nghĩ rằng, bạn có thể là một người giàu có hoặc nổi tiếng?

     [Nếu bệnh nhân báo cáo có bất kỳ ý tưởng, hoang tưởng khuếch đại nào, hỏi thêm những câu sau đây]:

  • Bạn thường xuyên có được suy nghĩ về…?
  • Bạn đã nói với ai về những gì bạn đã nghĩ?
  • Bạn đã hành động dựa trên những ý tưởng này?

8.2.Điểm

2. Rất nhẹ: Cảm thấy mình tuyệt vời và phủ nhận vấn đề dù là hiển nhiên, thực tế.

3. Nhẹ: Tự phóng đại ​​vượt quá khả năng và sự đào tạo của mình.

4. Trung bình: Tính hay khoác lác không thích hợp, ví dụ: khẳng định mình xinh đẹp, hoặc có năng khiếu vượt quá thực tế, nhưng hiếm khi tự tiết lộ hoặc tác động lên những khái niệm thổi phồng này. Không kể đến các tài năng vĩ đại thực sự.

5. Tương đối nặng: Tương tự điểm 4, nhưng bệnh nhân thường tự công bố và tác động trên các ý tưởng hoành tráng này. Bệnh nhân có thể nghi ngờ về tính xác thực của ý tưởng khuếch đại. Không hoang tưởng.

6. Nặng: Hoang tưởng (tuyên bố có quyền lực đặc biệt như ES (Extrasensory perception: ngoại cảm), có hàng triệu đô la, phát minh ra máy mới, làm  công việc  mà bệnh nhân không bao giờ có khả năng, là Chúa Giêsu Kitô, Thủ tướng Chính phủ. Bệnh nhân không bận rộn về những vấn đề đó.

7. Rất nặng: Hoang tưởng tương tự điểm 6, nhưng bệnh nhân có vẻ rất bận rộn và có xu hướng  biểu lộ, hành động theo hoang tưởng khuếch đại.

9. Sự nghi ngờ

Niềm tin hiển nhiên hoặc được biểu lộ, là người khác đã hành động hiểm độc hoặc có ý định phân biệt đối xử với mình. Bao gồm sự truy hại bởi các cơ quan siêu nhiên hoặc không phải con người  (ví dụ: ma quỷ). Lưu ý: điểm 3 trở lên nên được đánh giá thêm theo nội dung tư  duy kỳ lạ (mục 11).

9.1. Câu hỏi

  • Bạn có bao giờ cảm thấy khó chịu ở nơi công cộng?
  • Liệu dường như có những người khác đang nhìn bạn?
  • Bạn có quan tâm về ý định của bất kỳ ai về  bạn?
  • Có ai làm theo cách của họ để tạo cho bạn một thời gian khó khăn, hoặc cố làm tổn thương bạn? Bạn có cảm thấy sự nguy hiểm nào không?

[Nếu bệnh nhân có ý tưởng, hoang tưởng bị truy hại, hỏi thêm như sau]:

  • Bạn có thường xuyên quan tâm ...đến điều mà bạn vừa diễn tả không?
  • Bạn có nói với bất cứ ai về những trải nghiệm  này không?

9.2. Điểm

2. Rất nhẹ: Có vẻ cảnh giác. Bất đắc dĩ phải trả lời một số câu hỏi mang tính chất cá nhân. Quá cảnh giác nơi công cộng.

3. Nhẹ: Mô tả sự cố, trong đó, những người khác đã làm tổn hại hoặc muốn làm hại bệnh nhân. Bệnh nhân cảm thấy dường như  những người khác đang xem, cười hay chỉ trích mình nơi công cộng, nhưng điều này chỉ thỉnh thoảng hoặc hiếm khi xảy ra. Ít hoặc không có mối bận tâm.

4. Vừa: Người khác đang nói về bệnh nhân một cách ác độc, có ý tiêu cực hoặc có thể gây tổn hại cho bệnh nhân. Vượt quá khả năng của sự hợp lý, nhưng không hoang tưởng. Sự cố nghi ngờ bị truy hại xảy ra thường xuyên (ít hơn một lần mỗi tuần) với mối bận tâm.

5. Tương đối nặng :  Tương tự như điểm 4, nhưng sự cố xảy ra thường xuyên, chẳng hạn như hơn một lần mỗi tuần. Bệnh  nhân vừa phải bận tâm với những ý tưởng bị truy hại, bệnh nhân báo cáo hoang tưởng bị truy hại với nhiều nghi ngờ.

6. Nặng: Hoang tưởng - nói về âm mưu Mafia, FBI hoặc những người khác đầu độc thực phẩm của mình, bị truy hại bởi lực lượng siêu nhiên.

7. Rất nặng: Tương tự như điểm 6, nhưng niềm tin rất kỳ quái hoặc làm bận tâm hơn. Bệnh nhân có xu hướng biểu lộ, hoặc hành động theo hoang tưởng bị truy hại.

10. Ảo giác

Bệnh nhân báo cáo sự cảm nhận của mình khi không có  các kích thích bên ngoài có liên quan. Khi đánh giá mức độ chức năng bị phá vỡ bởi ảo giác, phải bao gồm mối bận tâm với các nội dung và trải nghiệm của ảo giác, cũng như chức năng bị gián đoạn bởi các hành động  do nội dung ảo giác chi phối (ví dụ, tham gia vào hành vi lệch lạc do lệnh của ảo giác), gồm quá trình suy nghĩ rõ ràng hoặc ảo giác giả (ví dụ, nghe một giọng nói trong đầu) nếu chất lượng âm thanh rõ .

10.1. Câu hỏi

  •  Bạn có bao giờ dường như nghe thấy tên của bạn được gọi?
  •  Bạn đã nghe bất cứ âm thanh hoặc những người nói chuyện với bạn hoặc về bạn khi không có ai xung quanh?

   [Nếu nghe tiếng nói]:

  • Tiếng nói, giọng nói về gì? Chất lượng âm thanh rõ không?
  • Bạn có bao giờ nhìn thấy những thứ mà người khác không nhìn thấy?    
  • Ngửi mùi  hôi mà những người khác không ngửi thấy?.

   [Nếu bệnh nhân có ảo giác, hỏi thêm các câu sau đây]:

  • Những ảo giác này có ảnh hưởng đến khả năng thực hiện những công việc bình thường của bạn hay không?
  • Làm thế nào để giải thích những ảo giác này?
  • Chúng xảy ra thường xuyên như thế nào?

10.2. Điểm

2. Rất nhẹ: Trong khi nghỉ ngơi hoặc sắp ngủ, nhìn thấy hình ảnh, ngửi có mùi hoặc nghe tiếng nói, âm thanh, hoặc tiếng thì thầm khi không có sự kích thích bên ngoài, nhưng bệnh nhân không suy giảm hoạt động.

3. Nhẹ: Trong khi ở trong trạng thái sáng sủa của ý thức, nghe tiếng gọi tên mình,  có ảo giác thính giác không bằng lời nói (ví dụ  âm thanh hay thì thầm),  ảo thị  không có hình thù, hoặc ảo thanh song song với kích thích có liên quan (ví dụ, ảo tưởng thị giác) không thường xuyên (ví dụ, 1-2 lần mỗi tuần) và không suy giảm chức năng.

4. Trung bình: Ảo giác lời nói, thị giác, vị giác, khứu giác, xúc giác không suy giảm chức năng hoặc ảo thính không lời nói hoặc là ảo tưởng thị giác khá  thường xuyên, có suy giảm hoạt động.

5. Tương đối nặng: Ảo giác xuất hiện hàng ngày hoặc một số lĩnh vực của hoạt động hàng ngày bị gián đoạn bởi ảo giác.

6. Nặng: Ảo giác  bằng lời nói hoặc hình ảnh xuất hiện  nhiều lần trong  ngày hoặc nhiều lĩnh vực của hoạt động bị gián đoạn bởi ảo giác này.

7. Rất nặng: Ảo giác liên tục bằng lời nói hay hình ảnh suốt cả ngày hoặc nhiều hoạt động bị gián đoạn bởi  ảo giác.

11. Nội dung tư duy kỳ lạ

Nội dung tư duy không bình thường, kỳ cục,  kỳ lạ, hoặc kỳ quái. Đánh giá mức độ không bình thường, không đánh giá mức độ rối loạn lời nói. Hoang tưởng  vô lý, sai rõ hoặc những ý tưởng kỳ lạ được thể hiện với niềm tin đầy đủ. Hãy xem như bệnh  nhân có đầy đủ niềm tin là anh ta đã hành động vì dường như niềm tin, hoang tưởng là sự thật. Ý tưởng liên hệ, bị truy hại có thể được phân biệt với hoang tưởng, trong đó những ý tưởng được thể hiện với nhiều nghi ngờ và chứa đựng các thành phần của thực tế. Bao gồm ý nghĩ lồng ghép, thu mình và phát sóng. Bao gồm hoang tưởng bị hại, khuếch đại về cơ thể.

    Lưu ý: Nếu quan tâm về cơ thể, nghi ngờ, tội lỗi, hoặc khuếch đại được đánh giá điểm 6 hoặc 7 do hoang tưởng, sau đó,  cần đánh giá thêm nội dung tư duy kỳ lạ ở điểm 4 hoặc cao hơn.

11.1. Câu hỏi

  • Bạn đã nhận được bất kỳ tin nhắn đặc biệt từ những người hoặc từ các vật bố trí xung quanh bạn? Bạn đã thấy bất kỳ điều ám chỉ đến chính mình trên truyền hình hoặc trong báo chí?
  • Có người nào đó có thể đọc được suy nghĩ của bạn? (tư duy bị đánh cắp).
  • Bạn có một mối quan hệ đặc biệt với Chúa?
  • Có bất cứ điều gì giống như điện, tia X, sóng vô tuyến ảnh hưởng đến bạn? (hoang tưởng bị chi phối bởi tác nhân vật lý)
  • Có phải suy nghĩ đặt vào đầu của bạn mà không phải là của riêng bạn? (tư duy bị áp đặt).
  • Bạn có cảm thấy rằng bạn đang chịu sự kiểm soát của người khác hoặc thế lực nào đó?

     [Nếu bệnh nhân báo cáo họ có ý tưởng, hoang tưởng kỳ lạ, cần hỏi những câu sau đây]:

  • Bạn có thường suy nghĩ về điều đó (hoang tưởng) không?
  • Bạn đã nói với mọi người về những trải nghiệm này?  Bạn giải thích những điều đã xảy ra như thế nào?

11.2. Điểm

2. Rất nhẹ: Ý tưởng liên hệ (mọi người có lẽ nhìn chằm chằm hoặc có lẽ cười nhạo bệnh nhân), những ý tưởng bị truy hại (mọi người có lẽ đối xử tệ với bệnh nhân). Niềm tin bất thường trong sức mạnh tâm linh, tinh thần, vật thể bay không xác định (UFO), hoặc niềm tin không thực tế vào khả năng của chính mình. Bệnh nhân không tin tưởng một cách mạnh mẽ, còn chút nghi ngờ.

3. Nhẹ: Như phần  2, nhưng mức độ biến dạng thực tế là nghiêm trọng hơn như được chỉ ra bởi ý tưởng rất không bình thường hoặc sự tin tưởng lớn hơn. Nội dung có thể là các hoang tưởng điển hình (thậm chí kỳ quái), nhưng không có niềm tin đầy đủ. Hoang tưởng không có vẻ đã hình thành đầy đủ, nhưng coi như là lời giải thích cho một kinh nghiệm khác thường.

4. Trung bình: Có hoang tưởng  nhưng bệnh nhân không  bận tâm hoặc suy giảm chức năng. Có thể là một hoang tưởng được gói gọn hoặc một niềm tin vô lý được bệnh nhân xác nhận về trường hợp hoang tưởng trong quá khứ.

5. Tương đối nặng: Một hoặc nhiều hoang tưởng toàn vẹn với một số mối bận tâm hoặc một số lĩnh vực hoạt động bị gián đoạn bởi hoang tưởng.

6. Nặng: Một hoặc nhiều hoang tưởng toàn vẹn với nhiều mối bận tâm hoặc nhiều lĩnh vực hoạt động bị gián đoạn bởi hoang tưởng.

7. Rất nặng: Một hoặc nhiều hoang tưởng toàn vẹn với mối bận tâm gần như toàn bộ hoặc nhiều lĩnh vực hoạt động bị gián đoạn bởi hoang tưởng.

*Đánh giá mục 12-13 sau đây trên cơ sở tự báo cáo của bệnh nhân và hành vi quan sát được.

12. Hành vi kỳ dị

Báo cáo về các hành vi kỳ lạ, bất thường, hoặc tội phạm do loạn thần. Không giới hạn thời gian phỏng vấn. Bao gồm các hành vi tình dục không phù hợp và giả bộ  không thích hợp.

12.1. Câu hỏi

  • Bạn đã thực hiện điều gì  làm thu hút sự chú ý của người khác?
  • Bạn đã thực hiện bất cứ điều gì có thể đã gặp rắc rối với cảnh sát?
  • Các bạn đã thực hiện bất cứ điều gì mà có vẻ bất thường hoặc quấy rối người khác?.

12.2. Điểm

2. Rất nhẹ: Hơi kỳ quặc hay hành vi lập dị, ví dụ như, thỉnh thoảng tự cười khúc khích, không thể tiếp xúc bằng mắt một cách thích hợp, dường như không thu hút sự chú ý của những người khác, hoặc hành vi bất thường được tiến hành trong kín đáo, ví dụ nghi thức  vô thưởng vô phạt, mà không thu hút sự chú ý của người khác.

3. Nhẹ: Hành vi nơi công cộng đáng chú ý đặc biệt, ví dụ, nói chuyện lớn tiếng một cách không thích hợp, tiếp xúc bằng mắt một cách không thích hợp, hoặc hành vi kín đáo thỉnh thoảng, không thường xuyên, thu hút sự chú ý của những người khác, ví dụ: tích trữ thực phẩm, tiến hành nghi lễ bất thường, đeo găng tay trong nhà.

4. Trung bình: Hành vi kỳ lạ rõ rệt,  thu hút hoặc sẽ thu hút (nếu được thực hiện một cách riêng tư) sự chú ý hoặc quan tâm của người khác, nhưng không có can thiệp điều chỉnh cần thiết. Hành vi diễn ra thường xuyên, ví dụ: nhìn chằm chằm vào không gian trong vài phút, nói chuyện với tiếng nói, cười khúc khích, cười không phù hợp 1-2 lần, nói chuyện lớn tiếng.

5. Tương đối nặng: Hành vi kỳ lạ rõ rệt,  thu hút hoặc sẽ thu hút (nếu được thực hiện riêng tư) sự chú ý kỳ lạ của người khác và chính quyền, ví dụ: nhìn chằm chằm, thường xuyên cười khúc khích không phù hợp, cười, đôi khi phản ứng với tiếng nói, hoặc ăn không có thực phẩm.

6. Nặng: Hành vi kỳ lạ thu hút sự chú ý của người khác và sự can thiệp của chính quyền, ví dụ, chỉ đạo giao thông, khoả thân nơi công cộng, nhìn chằm chằm vào không gian trong thời gian dài, tiến hành một cuộc trò chuyện với ảo giác, cười khúc khích, cười thường xuyên không phù hợp.

7.Rất nặng: Mắc  tội phạm nghiêm trọng một cách kỳ lạ, thu hút sự chú ý của người khác và sự kiểm soát của chính quyền, ví dụ, đốt  lửa và nhìn chằm chằm vào  ngọn lửa, hoặc hành vi kỳ lạ gần như liên tục, ví dụ: cười, cười khúc khích không phù hợp, phản ứng chỉ với ảo giác và không ăn khớp với sự tương tác.

13. Không tự chăm sóc bản thân

Vệ sinh, diện mạo, hoặc hành vi ăn uống dưới mức mong đợi bình thường, dưới tiêu chuẩn xã hội được chấp nhận hay đe dọa cuộc sống.

13.1. Câu hỏi

  • Chải chuốt của bạn gần đây như thế nào?
  • Bạn thay đổi quần áo có thường hay không?
  • Bạn có thường tắm không?
  • Có ai (cha mẹ, đồng nghiệp) phàn nàn về chải chuốt hoặc cách ăn mặc của bạn?
  • Bạn có thường xuyên ăn vào các bữa ăn không?

13.2. Điểm

2. Rất nhẹ: Vệ sinh, diện mạo hơi thấp hơn tiêu chuẩn cộng đồng bình thường, ví dụ, áo sơ mi  bỏ ngoài quần đùi, cởi khuy nút, dây giày không  buộc, nhưng không gây hậu quả  xã hội hoặc y tế.

3. Nhẹ: Vệ sinh, diện mạo  thỉnh thoảng dưới tiêu chuẩn cộng đồng thông thường, ví dụ, không thường xuyên tắm rửa, quần áo được nhuộm màu, mái tóc không chải, đôi khi bỏ qua một bữa ăn quan trọng. Không có hậu quả xã hội hoặc y tế.

4. Trung bình: Vệ sinh, diện mạo dưới tiêu chuẩn cộng đồng thông thường một cách đáng chú ý, ví dụ, không tắm hay thay quần áo, quần áo rất bẩn, không chải tóc, cần nhắc nhủ, dễ nhận thấy bởi những người khác hoặc không thường xuyên ăn uống có vấn đề y tế tối thiểu và gây hậu quả tối thiểu.

5. Tương đối nặng:  Một số lĩnh vực vệ sinh, diện mạo  dưới mức tiêu chuẩn bình thường của cộng đồng hoặc chải chuốt kém, thu hút những lời chỉ trích bởi người khác và đòi hỏi phải thường xuyên nhắc nhở.

Ăn uống thất thường và nghèo nàn, gây ra một số vấn đề y tế.

6. Nặng: Nhiều lĩnh vực của vệ sinh, diện mạo dưới các tiêu chuẩn cộng đồng thông thường, không luôn luôn tắm hoặc thay quần áo ngay cả nếu được nhắc nhở. Chải chuốt kém khiến xã hội tẩy chay ở trường, nơi cư trú, làm việc, hoặc phải can thiệp cần thiết. Ăn uống thất thường và kém dinh dưỡng, có thể yêu cầu can thiệp y tế.

7. Rất nặng: Hầu hết các lĩnh vực vệ sinh, diện mạo, dinh dưỡng cực kỳ nghèo nàn và dễ dàng nhận thấy dưới tiêu chuẩn cộng đồng thông thường và  yêu cầu can thiệp y tế khẩn cấp, ngay lập tức.

14. Mất phương hướng

Không hiểu tình huống hoặc thông tin liên lạc, chẳng hạn như các câu hỏi được hỏi trong toàn bộ cuộc phỏng vấn BPRS, nhầm lẫn về người, địa điểm, hoặc thời gian. Đừng đánh giá nếu câu trả lời không chính xác do hoang tưởng.

14.1. Câu hỏi

  • Bạn bao nhiêu tuổi?
  • Hôm nay ngày gì?
  • Nơi này được gọi là gì?
  • Bạn sinh năm nào ?
  • Thủ tướng Chính phủ là ai?

14.2. Điểm

2. Rất nhẹ: Có vẻ lộn xộn hoặc nhầm lẫn nhẹ nhàng 1-2 lần trong cuộc phỏng vấn về định hướng người, địa điểm và thời gian.

3. Nhẹ: Thỉnh thoảng lộn xộn hoặc nhầm lẫn nhẹ nhàng 3-4 lần trong cuộc phỏng vấn.  Không chính xác nhẹ về người, địa điểm, thời gian, ví dụ, sai hơn 2 ngày, hoặc nhận sai các bộ phận của bệnh viện hoặc trung tâm cộng đồng.

4.Trung  bình: Hay nhầm lẫn trong quá trình phỏng vấn, không chính xác nhẹ về người, địa điểm, hoặc thời gian được lưu ý, như trong mục 3 nêu trên. Ngoài ra, có thể gặp khó khăn trong việc ghi nhớ chung thông tin, ví dụ, tên của Thủ tướng Chính phủ.

5. Tương đối nặng: Nhầm lẫn đáng kể trong quá trình phỏng vấn về người, địa điểm, hoặc thời gian. Thiếu chính xác đáng kể được ghi nhận, ví dụ,  hơn một tuần, hoặc không thể cung cấp tên chính xác của bệnh viện. Có khó khăn khi ghi nhớ thông tin cá nhân, ví dụ, nơi sinh hay nhận ra những người quen thuộc.

6. Nặng: Mất phương hướng về người, địa điểm, thời gian, ví dụ, không thể cung cấp  chính xác tháng và năm. Mất phương hướng  2 trong 3 lĩnh vực.

7. Rất nặng: Mất phương hướng về người, địa điểm, thời gian, ví dụ, không thể cung cấp tên hay tuổi tác. Mất phương hướng trong cả ba lĩnh vực.

* Đánh giá mục 15-24 trên cơ sở quan sát hành vi và lời nói.

15. Rối loạn nhận thức

Tùy mức độ, lời nói  bị  nhầm lẫn, bị ngắt kết nối, mơ hồ . Đánh giá sự xa rời chủ đề, chi tiết, đột ngột thay đổi chủ đề, rời rạc, không ăn khớp, tắt nghẽn, sáng tạo từ mới, và các rối loạn lời nói khác. Đừng đánh giá nội dung của lời nói.

2. Rất nhẹ: Sự sử dụng kỳ lạ của các từ hoặc nói  không mạch lạc, nhưng  có thể hiểu được.

3. Nhẹ: Lời nói có một chút khó khăn để hiểu hoặc có ý nghĩa xa rời chủ đề, chi tiết, đột ngột thay đổi chủ đề.

4.Trung bình: Lời nói có khó hiểu  do sự xa rời chủ đề, chi tiết, mang phong cách riêng, đột ngột thay đổi chủ đề trong nhiều trường hợp, hoặc 1-2 trường hợp các cụm từ không mạch lạc.

5. Tương đối nặng: Lời nói có khó hiểu  do sự xa rời chủ đề, chi tiết, sáng tạo từ, tắt nghẽn, hoặc chủ đề thay đổi hầu hết thời gian, hoặc 3-5 trường hợp các cụm từ không mạch lạc.

6. Nặng:  Lời nói không thể hiểu được vào hầu hết thời gian. Nhiều mục BPRS không thể được đánh giá.

7. Rất nặng: Lời nói  không thể hiểu được trong suốt cuộc phỏng vấn.

16. Cảm xúc cùn mòn:

Hạn chế trong phạm vi biểu cảm cảm xúc của khuôn mặt, giọng nói và cử chỉ. Sự thờ ơ rõ rệt hoặc cảm xúc phẳng lặng, ngay cả khi thảo luận về chủ đề đau khổ. Trong trường hợp bệnh nhân khoái cảm hoặc loạn cảm, đánh gía sự cùn mòn cảm xúc nếu cảm xúc phẳng lặng rõ rệt.

2. Rất nhẹ: Phạm vi cảm xúc được hạ nhẹ hoặc duy trì, nhưng hiển thị biểu cảm thích hợp trên mặt và giọng điệu của giọng nói còn trong giới hạn bình thường.

3. Nhẹ: Phạm vi cảm xúc bị giảm. Giai điệu giọng nói  hơi đơn điệu.

4.  Trung bình:  Phạm vi cảm xúc giảm sút thấy rõ, cá nhân không thể hiện cảm xúc, mỉm cười hoặc phản ứng với chủ đề đau khổ, trừ khi thật hãn hữu. Giọng nói đơn điệu hoặc có giảm hoạt động tự phát rõ. Hiển thị cảm xúc hoặc cử chỉ thường được theo sau bởi sự một trở lại của cảm xúc phẳng lặng.

5. Tương đối nặng: Phạm vi cảm xúc rất giảm sút, bệnh nhân không hiển thị cảm xúc, nụ cười, hoặc phản ứng với chủ đề đau khổ ngoại trừ mức độ tối thiểu, vài cử chỉ, biểu hiện khuôn mặt thường xuyên không thay đổi. Giọng nói đơn điệu trong phần lớn thời gian.

6. Nặng: Phạm vi hoặc biểu hiện cảm xúc rất ít. Lời nói và cử chỉ có tính chất máy móc trong hầu hết thời gian. Biểu hiện trên khuôn mặt không thay đổi. Giọng nói đơn điệu trong hầu hết thời gian.

7. Rất nặng: Hầu như không có nhiều cảm xúc hay biểu cảm, các cử động cứng nhắc. Giọng nói đơn điệu trong tất cả thời gian.

Sử dụng công cụ thăm dò sau vào cuối của cuộc phỏng vấn để đánh giá đáp ứng cảm xúc của bệnh nhân:

  • Bạn đã nghe nhiều câu chuyện cười trong  thời gian gần đây?
  • Bạn có muốn nghe một câu chuyện đùa không?

17. Cảm xúc thu mình

Bệnh nhân thiếu sót khả năng  liên kết cảm xúc trong tình huống phỏng vấn. Có  một rào cản vô hình giữa bệnh nhân và người phỏng vấn. Bệnh nhân thu mình lại do các quá trình loạn thần.

2. Rất nhẹ: Thiếu sự tham gia của cảm xúc thể hiện bởi sự thất bại không thường xuyên khi thực hiện  ý kiến liên quan, bệnh nhân có  bận tâm việc khác, hoặc mỉm cười một cách cứng nhắc, nhưng cam kết một cách tự nguyện tham gia phỏng vấn hầu hết thời gian.

3. Nhẹ: Thiếu sự tham gia của cảm xúc thể hiện bởi sự thất bại đáng kể khi thực hiện  ý kiến liên quan, bệnh nhân có  bận tâm việc khác, hoặc thiếu sự nhiệt tình, nhưng vẫn trả lời người phỏng vấn khi tiếp cận.

4. Trung bình: Tiếp xúc cảm xúc  không hiện hữu nhiều trong cuộc phỏng vấn bởi vì bệnh nhân không trả lời, không tiếp xúc bằng mắt, dường như không quan tâm khi người phỏng vấn lắng nghe, hoặc có thể bị bận tâm do loạn thần.

5. Tương đối nặng: Tương tự như điểm 4, nhưng tiếp cận cảm xúc không hiện diện trong hầu hết cuộc phỏng vấn.

6. Nặng: Chủ động tránh sự tiếp cận cảm xúc. Thường xuyên không đáp ứng hoặc đáp ứng bằng câu trả lời có /không (không chỉ do hoang tưởng bị hại). Phản ứng cảm xúc chỉ tối thiểu.

7. Rất nặng: Kiên quyết tránh sự tiếp cận cảm xúc. Không phản hồi hoặc đáp ứng bằng câu trả lời có / không (không chỉ do hoang tưởng bị hại). Có thể trốn khỏi cuộc phỏng vấn, hoặc không trả lời gì cả.

18. Giảm vận động
Giảm mức năng lượng được chứng minh bởi các cử động và lời nói chậm lại, làm giảm ngôn ngữ cơ thể, giảm sự cử động tự phát của cơ thể. Đánh giá chỉ trên cơ sở quan sát hành vi của bệnh nhân. Không  đánh giá trên cơ sở  ấn tượng chủ quan của bệnh nhân.  Đánh giá không  kể tác dụng của thuốc.

2. Rất nhẹ: Cử  động hoặc lời nói của bệnh nhân hơi chậm lại hoặc giảm nhẹ so với hầu hết mọi người.

3. Nhẹ: Cử  động hoặc  lời nói của bệnh nhân chậm lại hoặc giảm đáng kể so với hầu hết mọi người.

4. Trung bình: Cử  động hoặc lời nói của bệnh nhân chậm lại hoặc giảm nhiều.

5. Tương đối nặng: Hiếm khi di chuyển hoặc nói một cách tự nhiên, hoặc chuyển động cứng nhắc, máy móc.

6. Nặng: Không chuyển động hoặc nói chuyện trừ khi bị bắt buộc hoặc thúc giục.

7. Rất nặng: Đông lạnh, căng trương lực

19. Tình trạng căng thẳng

Biểu hiện của sự căng thẳng về thể chất và vận động có thể quan sát được, nóng nảy và kích động.

Căng thẳng do bệnh nhân tự báo cáo nên được đánh giá theo mục  lo âu. Không đánh giá nếu bồn chồn chỉ do chứng đứng ngồi không yên, nhưng sẽ đánh giá nếu chứng đứng ngồi không yên càng trầm trọng hơn do sự căng thẳng.

2. Rất nhẹ: Biểu lộ đứng ngồi không yên hơn so với hầu hết, nhưng trong phạm vi bình thường. Một vài dấu hiệu thoáng qua của căng thẳng, ví dụ, búng móng tay, vẫy chân, gãi da đầu nhiều lần hoặc đập ngón tay.

3. Nhẹ: Như điểm 2, nhưng có dấu hiệu thường xuyên hơn hoặc phóng đại của sự căng thẳng.

4. Trung bình: Nhiều và thường xuyên có dấu hiệu căng thẳng vận động với một hoặc nhiều dấu hiệu đôi khi xảy ra đồng thời, ví dụ như vẫy chân trong khi vắt tay với nhau. Có khi không có dấu hiệu của sự căng thẳng.

5. Tương đối nặng: Dấu hiệu nhiều và thường xuyên của căng thẳng vận động với một hoặc nhiều dấu hiệu thường xảy ra đồng thời. Hiếm khi không có dấu hiệu căng thẳng.

6. Nặng: Tương tự như điểm 5, nhưng dấu hiệu của sự căng thẳng liên tục.

7. Rất nặng: Nhiều biểu hiện vận động  của sự căng thẳng liên tục, ví dụ, liên tục nhịp và vắt tay.

20. Không  hợp tác

Đề kháng và thiếu sẵn sàng hợp tác  với cuộc phỏng vấn. Sự không hợp tác có thể là kết quả của sự nghi ngờ. Đánh giá sự không hợp tác liên quan đến cuộc phỏng vấn, không phải là hành vi, bao gồm hợp tác với bạn bè và người thân.

2. Rất nhẹ: Hiển thị các dấu hiệu phi ngôn ngữ của sự miễn cưỡng, nhưng bệnh nhân không khiếu nại hoặc tranh luận.

3. Nhẹ: Cứ phàn nàn hoặc cố gắng để tránh thực hiện đúng, nhưng cứ tiếp tục hợp tác mà không có tranh luận.

4. Trung bình: Qua lời nói thì chống lại, nhưng cuối cùng cũng tuân thủ sau khi câu hỏi được nói lại hoặc lặp lại.

5.  Tương đối nặng: Tương tự điểm 4, nhưng một số thông tin cần thiết để đánh giá sự không hợp tác một cách chính xác thì bị từ chối.

6. Nặng: Từ chối hợp tác với các cuộc phỏng vấn, nhưng vẫn còn trong bối cảnh cuộc phỏng vấn.

7. Rất nặng: Tương tự điểm 6, với những nỗ lực tích cực để thoát khỏi các cuộc phỏng vấn.

21. Kích động

Mức độ cảm xúc cao hoặc tăng phản ứng cảm xúc đối với người phỏng vấn hoặc các chủ đề được thảo luận, bằng chứng là cường độ tăng của nét mặt, giọng nói, cử chỉ biểu cảm hoặc tăng tốc độ và số lượng lời nói .

2. Rất nhẹ: Tinh tế và thoáng qua hoặc có vấn đề gia tăng về cường độ cảm xúc.

3. Nhẹ: Tinh tế nhưng liên tục gia tăng về cường độ cảm xúc. Ví dụ, sử dụng sinh động của cử chỉ và sự thay đổi trong giai điệu giọng nói.

4. Trung bình: Gia tăng rõ ràng nhưng không thường xuyên cường độ cảm xúc. Ví dụ, phản ứng với người phỏng vấn hoặc các chủ đề được thảo luận với cường độ cảm xúc đáng chú ý. Lời nói bị thúc ép.

5. Tương đối nặng: Gia tăng rõ ràng và liên tục về cường độ cảm xúc. Ví dụ, phản ứng với nhiều kích thích, mặc dù có liên quan hay không, với cường độ cảm xúc đáng kể. Lời nói thường xuyên bị thúc ép.

6. Nặng: Sự gia tăng về cường độ cảm xúc đáng kể. Ví dụ, phản ứng với hầu hết các kích thích bằng cường độ cảm xúc không thích hợp. Có khó khăn trong việc làm lắng dịu xuống hoặc duy trì công việc. Thường ngồi không yên, bốc đồng, lời nói thường bị thúc ép.

7. Rất nặng: Sự gia tăng đáng kể và liên tục về cường độ cảm xúc. Phản ứng với tất cả các kích thích bằng cường độ không phù hợp, tính bốc đồng. Không thể lắng dịu lại hoặc duy trì công việc. Rất hiếu động và bốc đồng trong hầu hết  thời gian. Lời nói bị thúc ép liên tục.

22. Đãng trí

Mức độ mà chuỗi lời nói và hành động quan sát  được bị gián đoạn bởi các kích thích không liên quan đến cuộc phỏng vấn. Đãng trí được đánh giá khi bệnh nhân cho thấy sự thay đổi trong trọng tâm của sự chú ý, đặc trưng bởi một sự tạm dừng trong lời nói hoặc đánh dấu một sự chuyển dịch trong ánh mắt. Sự chú ý của bệnh nhân có thể được kéo về một phía, ví dụ: có tiếng ồn trong phòng liền kề, sách trên kệ sách, áo quần của người phỏng vấn. Không đánh giá sự bất ngờ, nói xa rời chủ đề hoặc ý tưởng viễn vông.

Ngoài ra, không đánh giá sự nghiền ngẫm ảo tưởng.

2. Rất nhẹ: Nói chung, có thể tập trung vào câu hỏi của người phỏng vấn với chỉ có một sự đãng trí, hoặc sự thay đổi không phù hợp của sự chú ý trong thời gian ngắn.

3. Nhẹ: Bệnh nhân thay đổi trọng tâm của sự chú ý đến vấn đề không liên quan đến cuộc phỏng vấn 2-3 lần.

4. Trung bình: Đáp ứng với kích thích không thích hợp trong phòng, ví dụ,  tránh cái nhìn từ người phỏng vấn.

5. Tương đối nặng: Tương tự như trên, nhưng sự đãng trí gây cản trở rõ rệt vào dòng chảy của cuộc phỏng vấn.

6. Nặng: Đặc biệt khó khăn để tiến hành phỏng vấn hoặc theo đuổi một chủ đề do mối bận tâm của bệnh nhân với kích thích không liên quan.

7. Rất nặng: Không thể tiến hành cuộc phỏng vấn do bệnh nhân bận tâm về những kích thích không thích hợp.

23. Tăng hoạt động, vận động

Tăng mức năng lượng được chứng minh trong hoạt động một cách thường xuyên hơn, nói nhanh. Không đánh giá nếu đứng ngồi không yên do thuốc.

2. Rất nhẹ: Một số bồn chồn, khó ngồi yên, nét mặt sinh động, hoặc phần nào nói nhiều.

3. Nhẹ: Đôi khi rất bồn chồn, gia tăng rõ rệt trong động cơ hoạt động, cử chỉ sống động, 1-3  lần (trong quá trình khám), lời nói bị thúc ép.

4. Trung bình:  Đứng  ngồi không yên, quá nhiều biểu cảm trên mặt, hoặc vận động lặp lại không cần thiết. Lời nói bị thúc ép nhiều,  chiếm một phần ba của cuộc phỏng vấn.

5. Tương đối nặng: Thường bồn chồn, ngồi không yên. Nhiều vận động lặp lại không cần thiết. Di chuyển hầu hết thời gian. Lời nói bị thúc ép thường xuyên, khó khăn để gián đoạn.

6. Nặng:  Hoạt động tăng cường, bồn chồn, ngồi không yên,  ồn ào…, suốt trong hầu hết  cuộc phỏng vấn. Lời nói chỉ có thể bị gián đoạn với nhiều nỗ lực.

7. Rất nặng: Vận động tăng cường liên tục trong suốt toàn bộ cuộc phỏng vấn, ví dụ nhịp chân liên tục, lời nói liên tục bị thúc ép  không có tạm dừng, bệnh nhân chỉ có thể bị gián đoạn trong một thời gian ngắn và chỉ một số lượng nhỏ thông tin liên quan có thể nhận được.

24. Dáng vẻ cầu kỳ và điệu bộ

Hành vi bất thường và kỳ quái, hành vi và vận động có vẻ điệu bộ, hoặc bất kỳ tư thế nào rõ ràng cũng không thoải mái hay không phù hợp. Loại trừ các biểu hiện rõ ràng của  tác dụng phụ của thuốc. Không bao gồm các dáng vẻ cầu kỳ do bực dọc mà không phải là kỳ lạ hay bất thường.

2. Rất nhẹ: Dáng vẻ cầu kỳ, kỳ lạ và lệch tâm hoặc vận động mà người bình thường sẽ khó giải thích, ví dụ, nhăn nhó, búng ngón tay. Quan sát thấy một lần trong một khoảng thời gian ngắn.

3. Nhẹ: Như điểm 2, nhưng xảy ra  hai lần trong thời gian ngắn.

4. Trung bình: Dáng vẻ cầu kỳ và điệu bộ, ví dụ, hành vi và vận động có vẻ điệu bộ,  hành vi bập bênh, gật đầu, cọ xát, hoặc nhăn nhó, quan sát thấy nhiều lần trong thời gian ngắn hoặc không thường xuyên nhưng rất kỳ quặc. Ví dụ, tư thế không thoải mái duy trì trong 5 giây quá hai lần.

5. Tương đối nặng: Tương tự như điểm  4, nhưng xảy ra thường xuyên, hoặc một số lần ví dụ như, dáng vẻ cầu kỳ, rất kỳ quặc hay  điệu bộ mang phong cách riêng của cá nhân.

6. Nặng: Hành vi rập khuôn, thường xuyên  duy trì không thoải mái hoặc tư thế không thích hợp, cọ xát, bôi xấu, nghi thức kỳ lạ hoặc điệu bộ  thai nhi. Bệnh nhân có thể tương tác với con người và môi trường trong thời gian ngắn mặc dù có hành vi như trên.

7. Rất nặng: Tương tự như điểm  6, nhưng bệnh nhân không thể tương tác với con người hoặc môi trường do những hành vi này.

 

              (Biên dịch từ: http://www.scribd.com/doc/154576782/BPRS-Expanded )

 

 

 

Các bài viết khác:
Lịch công tác
Giá
Khám chữa bệnh
Chi hội Tâm thần học
Văn bản chuyên ngành
Tin nội bộ
Sức khỏe đời sống
Đang tải ...
Bệnh trầm cảm - dấu hiệu và phương pháp điều trị

Lượt truy cập: 1356255
 
Đang trực tuyến: 91